Cơ Chế Sửa Đổi Hiến Pháp, Bảo Hiến Và Các Thiết Chế Hiến Định Độc Lập

(1) Sự tập trung quyền lực nằm trong tay tổng thống, do đó tham nhũng, thông đồng và Nepotism (KKN) lan tràn rộng rãi, bất bình đẳng xã hội ngày càng lan rộng, nợ nước ngoài ngày càng phình to và khủng hoảng đa chiều xảy ra ở khắp mọi nơi. Các thể chế nhà nước hiện có được kiểm soát bởi Tổng thống.

(2) Hạn chế quyền chính trị của nhân dân. Điều này có thể được nhìn thấy bởi số lượng chức năng hạn chế của các đảng chính trị (PPP, Golkar, PDIP) và tự do báo chí bị xiềng xích.

Sau cùng, thời kỳ trật tự mới kết thúc với sự từ chức của Tổng thống Soeharto vào ngày 21 tháng 5 năm 1998 sau một cuộc biểu tình lớn được các sinh viên tiên phong và yêu cầu cải cách trong tất cả các lĩnh vực [53].

2.2.3.6. Hiến pháp cải cách năm 1945 (1998 - 1999)

Về bối cảnh lịch sử:

Hiến pháp từng có hiệu lực ở Indonesia bước vào thời kỳ cải cách trong tất cả các lĩnh vực với sự chấm dứt của sự cai trị của Tổng thống Soeharto. Trong thời gian này, có nhiều yêu cầu thay đổi Hiến pháp năm 1945. Hiến pháp năm 1945 được coi là có nhiều điểm yếu, bao gồm:

(1) Cơ cấu quyền lực trong Hiến pháp năm 1945 đặt quyền lực của Tổng thống rất lớn. Quyền lực của Tổng thống bao gồm quyền hành pháp, lập pháp và CHDCND Triều Tiên, và có các quyền theo hiến pháp đặc biệt, như đưa ra sự khoan hồng , ân xá , bãi bỏ và cải tạo . Ngoài ra, giới hạn thời gian của Tổng thống cũng trở nên không rõ ràng với dòng chữ "năm năm và có thể được bầu lại".

(2) Chức năng và nhiệm vụ giữa các tổ chức nhà nước không cân bằng. Ví dụ, không có bài viết nào đề cập đến luật sẽ như thế nào nếu Tổng thống từ chối phê chuẩn Dự thảo Luật do DPR đề xuất.

(3) Quyền của công dân trong Hiến pháp năm 1945 không rõ ràng. Chẳng hạn như liên quan đến quyền tự do lập hội, thu thập và đưa ra ý kiến cả bằng miệng và bằng văn bản được coi là không khả thi vì Luật chưa được hình thành. Kết quả là, những hạn chế về tự do báo chí đã từng xảy ra.

Trước khi sửa đổi Hiến pháp năm 1945 các bên đã thống nhất một số điều:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

(1) Không thay đổi Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1945

(2) Nhà nước Indonesia vẫn ở dạng một nhà nước đơn nhất với nội các tổng thống

Lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các nước Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á - 6

(3) Hiến pháp sửa đổi năm 1945 sẽ không còn sử dụng giải thích của Hiến pháp năm 1945

(4) Cấu trúc của tổ chức nhà nước trước và sau khi sửa đổi được thực hiện bằng phụ lục [88].

2.2.3.7. Hiến pháp năm 1945 sửa đổi 1999, 2000,

Lần sửa đổi đầu tiên của Hiến pháp năm 1945 (1999): là lần đầu tiên trong Phiên họp chung của MPR vào ngày 19/10/1999. Sửa đổi này bao gồm 9 điều và 16 câu. Chín

(9) điều được sửa đổi so với Hiến pháp năm 1945 là: Điều 5, Điều 7, Điều 9, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 17, Điều 20, và Điều 21. Bản chất của sửa đổi đầu tiên là để hạn chế lại thẩm quyền điều hành quá lớn trước đây của Tổng thống và Phó Tổng thống nhằm tránh rơi lại vào giai đoạn độc tài Sukarno. Điều này được thấy trong việc sửa đổi Điều 7, điều chỉnh nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng thống bị giới hạn ngắn lại. Không chỉ vậy, trong Điều 5, trong đó tổng thống không còn quyền quy định pháp luật một cách hợp pháp bởi và thay vào đó là thẩm quyền của Hạ Viện [98].

Bản sửa đổi thứ hai của Hiến pháp năm 1945 (2000): được thành lập tại Phiên họp chung của MPR, ngày 18/8/2000. Có 27 điều được sửa đổi trong 7 chương. Các chương sửa đổi, cụ thể là Chương của Chính phủ khu vực, Hội đồng đại diện khu vực, Lãnh thổ nhà nước, Vị trí của công dân trong nước và dân số, Cơ sở của quyền con người, Luật quốc phòng và an ninh, và Cờ, Ngôn ngữ, Quốc gia và Quốc ca [88]. Hiến pháp đã đưa vào Điều 18, Điều 18A, Điều 18B, Điều 19, Điều 20, Điều 20A, Điều 22A, Điều 22B, Điều 25E, Điều 26, Điều 27, Điều 28A, Điều 28B, Điều 28C, Điều 28D, Điều 28E, 28F, Điều 28G, Điều 28H, Điều 28I, Điều 28J, Điều 30, Điều 36B, và Điều 36C. Một trong những điểm nhấn ở bộ máy chính quyền là việc phê chuẩn Điều 18 với sự công nhận quyền tự trị khu vực và chính quyền khu vực sẽ được bầu thông qua cuộc bầu cử khu vực (pilkada) và được tham gia cuộc bầu cử quốc hội. Ngoài ra, lần sửa đổi này cũng tạo thành

một cột mốc quan trọng cho định nghĩa về quyền con người trong cơ sở pháp lý của Indonesia, cụ thể là việc mở rộng Điều 28 [100].

Hiến pháp năm 1945 sửa đổi lần ba (2001): Bản sửa đổi sửa đổi thứ ba năm 1945 được quy định vào ngày 9/11/2001. Các sửa đổi bao gồm 23 điều trong 7 chương. Các chương được sửa đổi là: Chương 1 - Hình thức và Chủ quyền, Chương 2 - MPR, Chương 3 - Quyền lực của Chính phủ Nhà nước, Chương 5 - Bộ Ngoại giao, Chương 7A - DPR, Chương 6 - Tổng tuyển cử, và Chương 8A BPK [53]. Thay đổi chính trong sửa đổi thứ ba là cuộc bầu cử tổng thống không còn thông qua MPR, mà trực tiếp thông qua người dân (Điều 1, Điều 6A). Điều khiến MPR không còn là tổ chức cao nhất. Hiến pháp cũng quy định thủ tục “đàn hạch” tổng thống. Thủ tục “đàn hạch” được quan tâm đặc biệt sau vụ việc Tổng thống Abdurrahman Wahid vào ngày 23/7/2001 đã bị phế truất với một cơ chế khá dễ dàng, người ta bắt đầu sợ hãi điều đó có thể gây ra sự bất ổn chính trị. Việc sửa đổi dẫn đến Điều 24 cũng bắt buộc phải thành lập Tòa án Hiến pháp và Ủy ban Tư pháp [83].

Sửa đổi Hiến pháp năm 1945 lần thứ tư (2002): Bản sửa đổi thứ tư của Hiến pháp năm 1945 đã được quy định tại Phiên họp chung của MPR, ngày 10/8/2002. Trong lần sửa đổi thứ tư này, nó quy định một số điều, cụ thể là:

(1) Sửa đổi Hiến pháp năm 1945 là Hiến pháp năm 1945 được thành lập vào ngày 18/8/1945.

(2) Việc sửa đổi đã được quyết định tại Hội nghị toàn thể MPR RI lần thứ 9, ngày 18/8/2000 và có hiệu lực vào ngày quy định.

(3) DPA có trong Chương IV đã bị bãi bỏ và sửa đổi tại Điều 16, sau đó được đưa vào Chương III liên quan đến Quyền lực của Chính phủ Nhà nước.

(4) Chủ quyền bên ngoài và bên trong được nhà nước cấp cho nhà nước liên bang. Trao chủ quyền hoặc đầu hàng quyền lực đó với giới hạn hạn. Điều này cũng xác nhận rằng nhà nước không có chủ quyền, nhưng quyền lực thực sự vẫn thuộc sở hữu của nhà nước [88].

Các điều: Điều 2, Điều 6A, Điều 8, Điều 11, Điều 16, Điều 23B, Điều 23D, Điều 24, Điều 31, Điều 32 của Hiến pháp được sửa đổi, đồng thời bổ sung bổ sung Điều 33,

Điều 34 và Điều 37. Thay đổi chính trong sửa đổi lần này là thành lập Hội đồng đại diện khu vực (DPD) với tư cách là một thành phần trong MPR và được bầu thông qua bầu cử. Việc sửa đổi đã bãi bỏ tổ chức DPA. Ngoài ra, cũng có những điều khoản quy định việc thực hiện nhiệm vụ đã được ghi trong Hiến pháp năm 1945 liên quan đến phúc lợi của mọi người như giáo dục, văn hóa và y tế [83].

Trải qua những thay đổi lịch sử, Hiến pháp Indonesia nhiều lần được sửa đổi với những nội dung mới khác nhau. Dù có những mục tiêu khác nhau và cách thức khác nhau, nhưng mỗi giai đoạn Hiến pháp đều dựa trên nền tảng Hiến pháp 1945 và thay đổi theo hướng tăng cường Nhân quyền và sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong Hiến pháp. Bộ máy Nhà nước có sự phân chia và giới hạn quyền lực rõ ràng hơn.

2.2.4. Nội dung Hiến pháp Indonesia hiện hành

Hiến pháp Indonesia hiện hành là Hiến pháp 1945 sửa đổi lần thứ tư năm 2002.

Cũng giống như các bản Hiến pháp sửa đổi trước đó, Hiến pháp 1945 (sửa đổi 2002) vừa có điểm kế thừa Hiến pháp 1945 (18/8/1945) vừa có những điểm mới khác biệt. Việc nhìn nhận, đánh giá Hiến pháp hiện hành sẽ giúp bức tranh về lịch sử và xu hướng thay đổi Hiến pháp tại Indonesia trở nên rõ ràng hơn.

2.2.4.1.Khái quát chung

Về hình thức:

Hiến pháp Indonesia là bản Hiến pháp thành văn. So với Hiến pháp được ban hành 1945, Hiến pháp sửa đổi 2002 đã có sự phong phú, đa dạng hơn trong các lĩnh vực quy định.

Về cấu trúc:

Mức độ chi tiết và kỹ thuật hợp hất các điều khoản. Hiến pháp Indonesia hiện hành có cấu trúc khá rõ ràng chia ra làm các chương với 16 chương cơ bản theo Hiến pháp được ban hành 1945. Hiến pháp Indonesia thuộc nhóm Hiến pháp có mức độ chi tiết hóa thấp (bên cạnh Lào và Campuchia) [11]. Sau quá trình sửa đổi, từ Hiến pháp ngắn nhất thế giới, Hiến pháp hiện hành của Indonesia trở thành Hiến pháp có độ dài vừa phải.

Về tính có hiệu lực:

Trong Hiến pháp Indonesia không có dòng nào quy định rõ ràng về hiệu lực của Hiến pháp. Tuy vậy, có những điều khoản gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của Hiến pháp. Đồng thời, có quy định không cho phép các văn bản pháp luật do các cơ quan Nhà nước ban hành hoặc công nhận không được trái với Hiến pháp. Ví dụ, Điều 24C của Hiến pháp Indonesia hiện hành: “Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền ra phán quyết cuối cùng đối với các vụ việc sơ thẩm đồng thời chung thẩm liên quan đến việc kiểm tra sự phù hợp của các đạo luật Hiến pháp.” Quy định tính hiệu lực Hiến pháp Indonesia vẫn chưa tương xứng với tầm quan trọng và vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước và xã hội [96].

2.2.4.2. Lời nói đầu

Về cơ bản Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành so với Hiến pháp ban hành 1945 không có quá nhiều điểm khác biệt. Nội dung đầu tiên lời nói đầu nhắc đến là nền tảng phát triển đất nước Indonesia độc lập , tự do, thống nhất, chủ quyền, bình đẳng; đó là dựa trên giá trị độc lập, dân chủ và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nội dung thứ hai được nhắc đến là mục đích ban hành Hiến pháp Indonesia với việc thiết lập Chính phủ, bảo vệ Nhà nước, quyền con người. Đồng thời nhấn mạnh “niềm tin vào thánh Allah” [11]. Lời nói đầu ngắn gọn đã nêu được những mục tiêu và mục đích của Hiến pháp. Có bốn giá trị triết học được coi là đáng chú ý trong Lời nói đầu, đó là giá trị của (1) sự bình đẳng về mức độ giữa tất cả các quốc gia trên thế giới và (2) nguyên tắc nhân đạo, giá trị

(3) công lý (công lý) dựa trên (4) giá trị của Thiên Chúa toàn năng, đó là niềm tin rằng thông minh như con người, không phải lúc nào cũng như mọi thứ họ có thể làm, mà không cần sự ban phước của thánh Allah toàn năng [107].

2.2.4.3. Chế độ Nhà nước

Theo Hiến pháp hiện hành, Indonesia là “Nhà nước đơn nhất với hình thức chính thể Cộng hòa. Chủ quyền thuộc về nhân dân và được thực hiện căn cứ vào Hiến pháp.” (Điều 1). Có thể thấy, trong lịch sử Hiến pháp Indonesia, chỉ có Hiến pháp RIS là nêu hình thức Nhà nước liên bang. Hiến pháp có nhắc tới chế độ Nhà nước, nhưng còn mức độ đơn giản, không hề nêu rõ nhiệm vụ của Nhà nước. Các quy định không chi tiết và cụ thể [11].

2.2.4.4. Các quy định về nhân quyền

So với bản Hiến pháp 1945, số lượng các quy định về Quyền con người trong Hiến pháp hiện hành đã tăng lên. Ngoài việc quy định riêng tại một chương (như Hiến pháp 1945), Hiến pháp Indonesia còn đưa quyền con người vào một số điều khoản thuộc chương 10 – Công dân và cư trú [11]. Từ những quyền ban đầu trong Hiến pháp 1945, Indonesia gần như đã đưa toàn bộ các quyền được công nhận trong Công ước về Quyền con người vào bản Hiến pháp hiện hành. Đây là một trong những xu hướng nổi bật của quá trình thay đổi của Hiến pháp Indonesia để cập nhật và bắt kịp xu thế thời đại. Xu hướng này sẽ được phân tích kỹ ở Chương 3 – Xu hướng và những vấn đề đặt ra của khóa luận.

2.2.4.5. Chính thể và bộ máy tổ chức nhà nước

Về chính thể, Hiến pháp quy định Indonesia là Nhà nước theo chính thể Cộng hòa Tổng thống. Đây là hình thức chính thể được Indonesia xác định phát triển theo ngay từ thời điểm mới giành độc lập. Đáng tiếc, Tổng thống đầu tiên của Indonesia vì lạm dụng quyền lực đã khiến đất nước lâm vào cảnh độc tài suốt 22 năm. Các Hiến pháp về sau đã có sự thay đổi, giới hạn lại quyền lực của Tổng thống, điều này cũng được thể hiện trong Hiến pháp hiện hành.

Về bộ máy Nhà nước,

(1) Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, vừa là người trực tiếp thi hành quyền hành pháp. Tổng thống do người dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm kỳ 5 năm và có thể giữ chức vụ tối đa 2 nhiệm kỳ. Tổng thống và Phó Tổng thống phải tranh cử theo đảng phái và theo cặp, và sẽ trúng cử nếu đạt tỷ lệ phiếu từ 20% ở bất kỳ tỉnh nào. Tổng thống ngoài các quyền mang tính nghi lễ, ngoại giao, Tổng thống còn có quyền phủ quyết với các đạo luật do cơ quan lập pháp thông qua. Đối với lập pháp, Hiến pháp Indonesia quy định Tổng thống không được phép giải tán cơ quan lập pháp. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định rõ ràng thủ tục đàn hạch với Tổng thống.

(2) Cơ quan lập pháp của Indonesia là Hội đồng đại diện nhân dân. Trên thực tế, công việc lập pháp là phép cộng giữa Tổng thống và Hội đồng đại diện nhân

dân. Đôi khi Tổng thống còn co vẻ “mạnh” hơn vì có thể trình dự án Luật và nắm trong tay quyền lập quy [11]. Hội đồng đại diện nhân dân được thành lập qua con đường bầu cử, họp ít nhất 1 lần mỗi năm. Hội đồng đại diện nhân dân kết hợp với Hội đồng tư vấn nhân dân trở thành một cơ quan đặc biệt trong bộ máy nhà nước Indonesia.

(3) Cơ quan tư pháp của Indonesia theo Hiến pháp hiện hành gồm Tòa án Tối cao và Tòa cấp dưới. Đặc biệt, Indonesia còn có Tòa Hiến pháp trong cơ cấu của mình. Hiến pháp hầu như chỉ quy định cụ thể các vấn đề thuộc Tòa án Tối cao, Tòa Hiến pháp, còn Tòa án cấp dưới được quy định và điều chỉnh trong các văn bản có liên quan. Không chỉ vậy, Indonesia còn có Tòa án Nhân quyền được thành lập theo Đạo luật số 26 năm 2000 về Tòa án Nhân quyền. Đạo luật công nhận Tòa án Nhân quyền Ad Hoc có thẩm quyền đặc biệt để xử lý vi phạm thô bạo về quyền con người diễn ra trước khi ban hành Đạo luật số 26 năm 2000. Việc thành lập Tòa án này phải được tiến hành theo khuyến nghị đặc biêt của quốc hội và được thành lập theo Nghị định của Tổng thống [44].

2.2.4.6. Cơ chế sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và các thiết chế hiến định độc lập

Việc sửa đổi bổ sung được quy định trong Hiến pháp Indonesia khá bó hẹp, được ví như “công việc riêng” của Hội đồng tư vấn nhân dân (bao gồm Hội đồng đại diện nhân dân và Hội đồng đại diện địa phương đã nhắc đến ở trên). Nhóm ít nhất 1/3 người đến từ Hội đồng tư vấn nhân dân có thể bắt đầu chu trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp có thể sửa đổi các nội dung, tuy nhiên, khoản 5 điều 37 Hiến pháp hiện hành với tuyên bố về: Hình thức nhà nước Cộng hòa đơn nhất là không được thay đổi.

Hiến pháp Indonesia trao quyền bảo hiến cho cơ quan độc lập – Tòa án Hiến pháp. Theo Hiến pháp, Tòa án Hiến pháp tại Indonesia có các thẩm quyền sau: xét xử các vụ việc liên quan đến tính hợp hiến của các luật với Hiến pháp, tranh chấp vụ việc về nhiệm vụ các cơ quan, về vấn đề bầu cử, đưa ra phán quyết về các quyết định vi hiến của Hội đồng đại diện nhân dân, hành vi vi hiến của Tổng thống hoặc Phó Tổng thống [44]. Hiến pháp cũng ghi nhận rất rõ ràng các quy định nhằm đảm bảo Tòa án Hiến pháp hoạt động một các độc lập với việc tuyển chọn 9 Thẩm phán có tiêu chuẩn gắt gao. Điểm trừ của

Hiến pháp hiện hành là chưa quy định rõ ràng quy trình và nói rõ ai là người khởi động mà chỉ nói sẽ do Hội đồng đại diện Nhân dân quy định.

Ngoài các cơ quan bộ máy Nhà nước đã được Hiến pháp kể tên, Indonesia còn tổ chức và thành lập các cơ quan kiểm toán độc lập nhằm hỗ trợ và thực hiện hiệu quả các công việc được quy định trong Hiến pháp [44].

2.2.4.7. Chính quyền địa phương

Hiến pháp Indonesia không có quy định chi tiết về chính quyền địa phương. Cộng hòa Indonesia chia thành các tỉnh, huyện, thành phố [97]. Và mỗi tỉnh, huyện, thành phố có Hội đồng đại diện địa phương của riêng mình. Tuy vậy, Hiến pháp Indonesia chỉ có 4 điều liên quan đến chính quyền địa phương (Điều 1, 3, 4, 18) nhưng không nói rõ đến mối quan hệ giữa các cơ quan đại diện dẫn đến những cách lý giải khác nhau trên thực tế. Như vậy, có thể thấy từ Hiến pháp ban đầu năm 1945 đến Hiến pháp hiện hành, Indonesia đã có nhiều thay đổi, nổi bật là quy định rõ ràng về bộ máy nhà nước theo hướng phân quyền hơn, hạn chế quyền Tổng thống, nâng cao quyền con người, và tăng

cường cơ chế bảo hiến.

2.2.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp

Việc quy định của Hiến pháp hiện hành Indonesia trên lý thuyết có nhiều thay đổi như vậy, nhưng từ lý thuyết đến thực tiễn luôn có một khoảng cách nhất định. Thực tiễn thi hành Hiến pháp Indonesia ra sao chính là thước đo việc áp dụng và tôn trọng Hiến pháp, cũng như vai trò của Hiến pháp với các nguồn pháp luật khác cùng tồn tại. Thực tiễn thi hành Hiến pháp Indonesia sẽ được nhìn nhận chủ yếu thông qua các vụ việc thực tiêu biểu và phán quyết của Tòa án.

2.2.5.1. Thực tiễn thi hành quyền con người

Tờ báo Anh quốc The Economist từng có bài viết về Indonesia với tựa đề ''Niềm ngạc nhiên đến từ Indonesia'', để nói tới nền dân chủ Indonesia trong không khí bầu cử theo Hiến pháp. Vào lúc Indonesia tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội lần thứ ba, báo chí tại Indonesia hiện rất sôi động và tự do, không bị ảnh hưởng của loại luật giống như luật cấm như Thái Lan, hay bị rào cản trong cách lý giải gò bó về tội phỉ báng như tại Singapore hay Malaysia. Không giống như quân đội Thái Lan đã trở lại chính trường

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 11/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí