Hiến Pháp Năm 1945 Của Hệ Thống Chính Quyền Trật Tự Cũ (Ngày 5

2.2.3. Lịch sử của Hiến pháp Indonesia

Để có thể đánh giá được lịch sử và sự thay đổi của hiến pháp một quốc gia, cần phải nghiên cứu và đánh giá các bản Hiến pháp đã qua của quốc gia đó gắn với bối cảnh lịch sử và các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật để có cái nhìn toàn diện. Giống như lịch sử chính trị của đất nước, lịch sử Hiến pháp Indonesia trải qua vô vàn thăng trầm. Trong quá trình nhìn lại lịch sử Hiến pháp Indonesia, tác giả sẽ đưa ra đánh giá khái quát nhất về sự thay đổi của Hiến pháp Indonesia qua từng giai đoạn.

Kể từ bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua ngày 18/08/1945, Indonesia đã trải qua nhiều lần sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở nền tảng Hiến pháp 1945. Cụ thể là:

(1) Hiến pháp năm 1945 (18/8/1945 - 27/12/1949). (2) Hiến pháp RIS (27/12/1949 – 17/8/1950).

(3) Hiến pháp Cộng hòa Indonesia năm 1945 (17/8/1950 – 5/7/1959).

(4) Hiến pháp năm 1945 của chính quyền trật tự cũ (5/7/1959 – 5/71965).

(5) Hiến pháp năm 1945 của chính quyền trật tự mới (21/5/1998).

(6) Hiến pháp năm 1945 cải cách (1998 – 1999)

(7) Hiến pháp năm 1945 và sửa đổi lần 1, lần 2, lần 3, lần 4 (1999, 2000, 2001, 2002) Nội dung chính và các điểm đáng lưu ý của các bản Hiến pháp Indonesia sẽ được phân tích dưới đây nhằm đưa ra một cái nhìn bao quát nhất về xu hướng lập hiến tại một

trong những quốc gia đông tín đồ Hồi giáo nhất thế giới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

2.2.3.1. Hiến pháp Indonesia 1945 (18/8/1945 - 27/12/1949)

Về hoàn cảnh lịch sử:

Lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các nước Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á - 5

Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Indonesia được ban hành ngay sau khi giành độc lập. Theo các nhà nghiên cứu, đây được xem là bản Hiến pháp ngắn nhất trên thế giới. Nó ngắn hơn nhiều so với Hiến pháp Hoa Kỳ và được một số học giả Mỹ tuyên bố là ngắn nhất. Trong khi Hiến pháp Hoa Kỳ có 1608 từ thì Hiến pháp 1945 của Indonesia chỉ có 1393 từ [48]. Hiến pháp năm 1945 lần đầu tiên được ban hành trong phiên họp Nhà nước Indonesia của Ủy ban trù bị độc lập Indonesia ngày 18/8/1945, một ngày sau khi nền độc lập của Cộng hòa Indonesia được tuyên bố bởi Sukarno và Mohammad Hatta vào ngày 17/8/1945. Văn bản của Hiến pháp năm 1945 được chuẩn bị bởi một cơ quan chính

phủ Nhật Bản được thành lập có tên là "Dokuritsu Zyunbi Tyoosakai" (tiếng Indonesia có tên là "Cơ quan điều tra nỗ lực chuẩn bị độc lập của Indonesia" (BPUPKI). Các thành viên của các cơ quan này được Chính phủ nước chủ nhà lập nên vào ngày 28/5/1945 nhằm thực hiện lời hứa của Chính phủ Nhật Bản trước quốc hội (Diet) để trao độc lập cho Indonesia. Tuy nhiên, sau khi thành lập, cơ quan này không chỉ nỗ lực chuẩn bị cho độc lập theo mục đích hình thành mà thay vào đó, chuẩn bị bản thảo của Hiến pháp làm cơ sở để thành lập Indonesia độc lập [58].

Về cơ cấu:

Hiến pháp Indonesia 1945 gồm: Lời nói đầu, 16 chương với 37 điều, 194 câu và 3 chương cho quy tắc chuyển tiếp và quy tắc bổ sung. Nội dung cụ thể của từng chương: Chương 1 - Hình thức của Nhà nước và chủ quyền, Chương 2 - Hội đồng tư vấn nhân dân (Majelis Permusyawaratan Rakyat hoặc MPR), Chương 3- Quyền hành pháp, Chương 4

- Hội đồng tư vấn tối cao, Chương 5 - Bộ trưởng nhà nước, Chương 6 - Hội đồng đại diện nhân dân (Dewan Perwakilan Rakyat hoặc DPR), Chương 7 - Hội đồng đại diện các khu vực (Dewan Perwakilan Daerah hoặc DPD), Chương 8 – Bầu cử, Chương 9 – Ngân sách, Chương 10 - Ủy ban Kiểm toán Nhà nước, Chương 11 – Công dân và cư dân, Chương 12

– Quyền con người, Chương 13 – Quốc phòng và an ninh, Chương 14 – Kinh tế quốc gia và phúc lợi xã hội, Chương 15 - Quốc kỳ, quốc ngữ, quốc huy và quốc ca, Chương 16 - Sửa đổi hiến pháp. Trong Điều khoản chuyển tiếp, đáng chú ý là Điều 3 nhắc đến việc thành lập Tòa án Hiến pháp trên thực tế [44].

Như vậy, Hiến pháp Indonesia có các chương liên quan đến bộ máy nhà nước và quyền con người được sắp xếp một cách thứ tự và khá rõ ràng. Hiến pháp 1945 đã xác lập căn bản các yếu tố nền tảng để xây dựng và phát triển nhà nước. Điều này là phù hợp trong bối cảnh Indonesia vừa giành được độc lập.

Về thời gian có hiệu lực:

Đáng tiếc, Hiến pháp 1945 của nhà nước vừa giành được độc lập Indonesia không phải là một Hiến pháp được áp dụng lâu dài bởi lẽ Hiến pháp năm 1945 không được sử dụng trực tiếp làm tài liệu tham khảo trong bất kỳ quyết định nào của nhà nước và chính phủ. Về bản chất, năm 1945 thực sự chỉ được sử dụng như một công cụ để lập tức thành

lập một quốc gia độc lập gọi là Cộng hòa Indonesia. Năm 1945 được dự định là một hiến pháp tạm thời, theo các điều khoản của Bung Karno, một 'revolutie-grondwet' hoặc Hiến pháp của sét, phải được thay thế bằng một hiến pháp mới khi nhà nước độc lập được thành lập và tình hình phù hợp [58]. Do đó, ngay trong các quy định của Hiến pháp khi đó đã có các điều khoản liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp: Các quy định tại Điều III của Quy tắc bổ sung cũng khẳng định rằng Hiến pháp của Cộng hòa Indonesia đã được sửa đổi sau đó sẽ có sau khi MPR chính thức thiết lập chúng. Tuy nhiên, cho đến khi Hiến pháp năm 1945 được sửa đổi lần đầu tiên vào năm 1999, MPR hiện tại vào năm 1945 vẫn chưa thành lập năm 1945 với tư cách là Hiến pháp của Cộng hòa Indonesia [44].

Về lời nói đầu:

Ngay ở Lời nói đầu Indonesia đã khẳng định nền tảng niềm tin dựa trên tôn giáo. Hiến pháp viết: “…By the grace of God Almighty and motivated by the noble desire to live a free national life, the people of Indonesia hereby declare their independence.” [44] (Dịch: theo ân sủng của Thiên Chúa Toàn năng và thúc đẩy bởi mong muốn cao cả để sống một cuộc sống của một dân tộc tự do, người dân Indonesia nay tuyên bố sự độc lập của mình), “…therefore the independence of Indonesia shall be formulated into a constitution of the Republic of Indonesia which shall be built into a sovereign state based on a belief in the One and Only God, just and civilised humanity, the unity of Indonesia, and democratic life led by wisdom of thoughts in deliberation amongst representatives of the people, and achieving social justice for all the people of Indonesia.” [44] (Dịch: Do đó, hình thành một nhà nước có chủ quyền dựa trên niềm tin vào một và chỉ một Thiên Chúa, vào nhân loại văn minh và công chính, vào sự thống nhất của Indonesia, và đời sống dân chủ dẫn dắt bởi sự khôn ngoan của những suy tư được thảo luận giữa những đại biểu nhân dân, hướng đến công bằng xã hội cho tất cả người dân Indonesia.) Không chỉ vậy, tại khoản 1 Điều 29 chương XI. Tôn giáo, Hiến pháp Indonesia cũng ghi nhận “(1) The State shall be based upon the belief in the One and Only God” (Dịch: Nhà nước sẽ dựa trên một niềm tin và duy nhất vào Chúa”). Như vậy, có thể thấy dù không tuyên bố quốc giáo, song, Hiến pháp Indonesia 1945 đã khẳng định nền tảng đức tin và tầm ảnh hưởng của tôn giáo tới Hiến pháp Indonesia.

Về nguyên tắc:

Hiến pháp Indonesia đã nhấn mạnh đến một trong những nguyên tắc rất quan trọng của nhà nước Indonesia - Pancasila với năm (5) nội dung chính, trong đó nội dung được nhắc đến ngay đầu tiên đó là nền tảng Hồi giáo đang mở rộng và có tầm vóc ở Indonesia [82]. Nội dung cụ thể của nguyên lý Pancasila sẽ được phân tích rõ ở phần Hiến pháp hiện tại của Indonesia (phần 2.2.4) bởi đó nguyên lý được gìn giữ và coi là “linh hồn” của việc xây dựng và làm nên Nhà nước Cộng hòa Indonesia.

Về các nội dung chính:

Thứ nhất, Hiến pháp đã tuyên bố, nhà nước Indonesia là nhà nước đơn nhất với hình thức chính thể cộng hòa [87], chủ quyền trong tay người dân và sẽ được thực hiện theo Hiến pháp [88], đồng thời khẳng định Indonesia là nhà nước vận hành trên cơ sở luật pháp [89].

Thứ hai, do tại thời điểm Hiến pháp ra đời, Indonesia mới chỉ tuyên bố độc lập, và trong thời kỳ chính phủ chuyển đổi. Vì vậy, không phải tất cả các UDD năm 1945 đã được thực hiện và đã có những sự khác biệt trên thực tế. Cụ thể:

(1) Quyền lực của tổng thống với tư cách là người nắm giữ quyền lực hành pháp cao nhất và các nhà tổ chức chính phủ là rất rộng. Vào thời điểm đó, quyền lực của tổng thống cũng bao gồm cơ quan lập pháp. Điều này tiếp tục cho đến khi cuối cùng Ủy ban Quốc gia Indonesia (KNIP) được giao nhiệm vụ quyền lực lập pháp thông qua Tuyên bố của Tổng thống số. X, ngày 16/10/1945.

(2) Sự hình thành của một nội các nghị viện với các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Hạ viện và do Thủ tướng Sutan Syahrir chủ trì. Dự thảo hiến pháp bao gồm việc mở Luật cơ bản (trong đó có tuyên bố độc lập, mục tiêu nhà nước và cơ sở nhà nước), nội dung hoặc nội dung của hiến pháp bao gồm 16 Chương, 37 điều, 4 điều chuyển tiếp, và 2 quy tắc bổ sung và giải thích về Hiến pháp [82].

Thứ ba, các nội dung liên quan đến quyền con người còn ở mức độ hạn chế. Các điều khoản về nhân quyền trong Hiến pháp, từ Điều 28A đến Điều 28J (gồm 10 quyền) thuộc chương 10 – Quyền con người của Hiến pháp. Có thể thấy, số lượng quyền được hiến định còn khá ít ỏi và còn nhiều chỗ trống.

Thứ tư, về cơ chế bảo hiến, Hiến pháp có quy định về Tòa án Hiến pháp ở Điều 24C, nhưng các vấn đề liên quan đến Tòa án Hiến pháp chưa được tách riêng mà chúng được xếp vào chương 8A – Ban Kiểm toán Nhà nước. Các quy định về Tòa án Hiến pháp và cơ cấu tòa án (với 9 Thẩm phán) đã được quy định, song trên thực tế, Tòa án Hiến pháp năm 1945 chưa được thực hiện nhiệm vụ bảo hiến của mình trên thực tế do tính lịch sử chỉ tồn tại trong thời gian ngắn của Hiến pháp Indonesia 1945.

Qua những nội dung sơ lược trên, có thể thấy, Hiến pháp 1945 đã đưa ra các nền tảng căn bản về đức tin, bộ máy nhà nước, tòa án, quyền con người,… Dù còn tồn tại những điểm hạn chế, song có thể lý giải bởi hoàn cảnh lịch sử và tính chất đặc biệt của Hiến pháp 1945. Những điểm hạn chế đó sẽ được sửa đổi dần trong những bản Hiến pháp của Indonesia về sau.

2.2.3.2. Hiến pháp RIS (27/12/1949 – 17/8/1950)

Về hoàn cảnh lịch sử:

Quốc gia Indonesia độc lập tiếp tục bị phá hoại bởi những người Hà Lan muốn giành lại Indonesia. Trận chiến bảo vệ nền độc lập của Indonesia xảy ra ở hầu hết các khu vực. Đỉnh cao của cuộc xâm lược Milter đầu tiên của Hà Lan vào năm 1947 và Cuộc xâm lược quân sự II của Hà Lan vào năm 1948. Hai thỏa thuận tiếp theo, đó là Thỏa thuận Linggarjati và Thỏa thuận Renville, tiếp tục bị vi phạm. Liên Hợp Quốc bước vào và cuối cùng đã tổ chức Hội nghị Bàn tròn (KMB) vào ngày 23 tháng 8 năm 1949 cho đến ngày 2 tháng 11 năm 1949 tại Den Hag, Hà Lan. KMB có sự tham dự của đại diện đến từ Indonesia do Mohammad Hatta, đại diện của Nhà nước bù nhìn Hà Lan, Sultan Hamid II, một đại diện từ Hà Lan do Mr. Van Brussven và từ Liên Hợp Quốc do Crittchlay lãnh đạo.

Các kết quả KMB chính là:

(1) Thành lập Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ (RIS)

(2) Đệ trình chủ quyền cho Nhà nước Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ

(3) Thành lập Liên minh giữa Vương quốc Hà Lan và Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ.

Với việc thành lập RIS, điều đó có nghĩa là Hiến pháp năm 1945 sẽ tự động vô hiệu. Vì vậy, nhân dịp này, Hiến pháp RIS cũng được soạn thảo. Hiến pháp RIS được thực hiện bởi đại diện của phái đoàn Indonesia và đại diện của các nước bù nhìn được thực hiện ở Hà Lan. Hiến pháp RIS này đã chính thức được ban hành kể từ khi chuyển giao chủ quyền cho RIS, ngày 27 tháng 12 năm 1949 [82].

Về nội dung, Hiến pháp RIS đã có những thay đổi so với Hiến pháp 1945 ở các

điểm:

Thứ nhất, Indonesia biến thành một quốc gia liên bang (thay vì đơn nhất như Hiến

pháp 1945), có quyền lực ở các bang. Các bang là Cộng hòa Indonesia (bao gồm Java và Sumatra), Đông Indonesia, Pasundan, Đông Java, Madura, Đông Sumatra và Nam Sumatra.

Thứ hai, việc giải thể RIS vẫn được lãnh đạo bởi một tổng thống, cụ thể là Tổng thống Soekarno. Nhưng tổng thống chỉ đóng vai trò là người đứng đầu nhà nước, không phải là người đứng đầu chính phủ. Người đứng đầu chính phủ được lãnh đạo bởi thủ tướng chịu trách nhiệm trước Hạ viện. Nó có nghĩa là tại thời điểm này nội các nghị viện cũng được áp dụng [92].

Tóm lại, do yếu tố lịch sử, Hiến pháp RIS đã ra đời và dựa trên phần lớn nội dung của Hiến pháp 1945 của Indonesia. Tuy nhiên, Hiến pháp RIS đã thu hẹp quyền của Tổng thống, Nghị viện đã hoạt động chính thức, hình thức nhà nước Indonesia đã không còn là nhà nước đơn nhất, đó là những điểm mới đáng chú ý của Hiến pháp Indonesia. Nhưng Hiến pháp RIS vẫn chưa thể giải quyết được hết vấn đề liên quan đến quyền con người và cơ chế bảo hiến từ Hiến pháp 1945.

2.2.3.3. Hiến pháp 1950 (17/8/1950 – 5/7/1959)

Về bối cảnh lịch sử:

Sau khi Hiến pháp RIS được ban hành và áp dụng, người ta nhận ra người dân Indonesia yêu thích Cộng hòa Thống nhất Indonesia (NKRI) hơn là nhà nước liên bang như RIS tuyên bố. Việc áp dụng Hiến pháp 1949 trở nên mờ nhạt, cuối cùng, đến đến năm 1950, tất cả các tiểu bang đã đồng ý quay trở lại NKRI. Vào ngày 17 tháng 8 năm 1950, đất nước liên bang theo Hiến pháp RIS không còn tồn tại trên bản đồ thế giới.

Về nội dung:

Thứ nhất, hiến pháp năm 1950 đã được soạn thảo và áp dụng tạm thời theo tên của nó. Một hiến pháp mới sẽ được soạn thảo và soạn thảo càng sớm càng tốt bởi Quốc hội lập hiến được hình thành dựa trên kết quả của cuộc tổng tuyển cử năm 1955 [88].

Thứ hai, trong Hiến pháp năm 1950, nhà nước đã trở lại hình thức của một nhà nước đơn nhất. Tổng thống đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia có nhiệm vụ không thể tranh cãi. Tổng thống không chịu trách nhiệm cho bất cứ ai và bất kỳ tổ chức nào. Người đứng đầu chính phủ vẫn do thủ tướng nắm giữ với hệ thống nội các nghị viện [99].

2.2.3.4. Hiến pháp năm 1945 của hệ thống chính quyền trật tự cũ (ngày 5

tháng 7 năm 1959 - 1965)

Về bối cảnh lịch sử:

Xuất phát từ sự phát triển có phần chững lại và thụt lùi. Với áp lực từ các bên khác nhau, Tổng thống Indonesia lúc bấy giờ đã ban hành Nghị định của Tổng thống ngày 5 tháng 7 năm 1959. Cốt lõi của sắc lệnh là 3, cụ thể là:

(1) Quốc hội lập hiến bị giải tán

(2) Quay trở lại Hiến pháp năm 1945 cho tất cả người Indonesia và tuyên bố rằng Hiến pháp năm 1945 không còn hiệu lực

(3) Thành lập Hội đồng tư vấn nhân dân lâm thời, có các thành viên bao gồm các thành viên của DPRS cộng với các đại biểu khu vực và nhóm. Ngoài ra, Hội đồng tư vấn tối cao tạm thời cũng được thành lập.

(4) Mặc dù nhà nước đã trở lại Hiến pháp năm 1945, nhưng trong quá trình thực thi, nó vẫn còn xa hiến pháp. Nhiều sai lệch so với Hiến pháp năm 1945. Trong số những sai lệch so với hiến pháp , những sai lệch này là:

(5) Sự hình thành của MPR, DPR và DPA vẫn chưa được thiết lập theo Hiến pháp năm 1945. Tất cả các tổ chức được thành lập vẫn chỉ là tạm thời. Vì vậy, nhiệm vụ vẫn chưa rõ ràng.

(6) Tổng thống với tư cách là người nắm quyền hành pháp và lập pháp (với DPR) có thể đưa ra luật mà không cần sự chấp thuận của DPR.

(7) MPRS đã có bài phát biểu của tổng thống vào ngày 17 tháng 8 năm 1959 với tựa đề "Tái khám phá cuộc cách mạng của chúng ta" được biết đến như là Tuyên ngôn chính trị của Cộng hòa Indonesia (Manipol), trở thành Nguyên tắc chính sách nhà nước vĩnh viễn (GBHN).

Về nội dung:

Thứ nhất, các chỉ đạo của Tổng thống đã được thực thi làm thay đổi diện mạo Hiến pháp, bởi dù đã thu hẹp quyền của Tổng thống trong Hiến pháp RIS và Hiến pháp 1950, nhưng Tổng thống vẫn còn quyền rất lớn với lập pháp và các cơ quan Nhà nước. Cụ thể, năm 1960, do DPRS không phê duyệt dự thảo ngân sách do chính phủ đề xuất, Tổng thống đã giải tán nó và thay thế bằng Dân chủ Hội đồng Nhân dân Gotong Royong (DPR- GR)

Thứ hai, ngay lập tức, MPRS đã đưa ra quyết định biến Tổng thống Sukarno trở thành tổng thống trọn đời. Các nhà lãnh đạo của các tổ chức nhà nước được làm bộ trưởng và tổng thống trong khi làm chủ tịch của DPAS.

Thứ ba, hệ quả của việc Tổng thống nắm trong tay quá nhiều quyền dẫn đến tình trạng độc quyền của Tổng thống. Tình trạng của đất nước ngày càng tồi tệ và lên đến đỉnh điểm với cuộc nổi loạn PKI G30S năm 1965 [99].

2.2.3.5. Hiến pháp năm 1945 của Chính phủ trật tự mới (21/5/1998)

Về bối cảnh lịch sử:

Nhờ sự cảnh giác của Lực lượng Vũ trang Indonesia (ABRI) và người dân, cuộc nổi dậy G30S PKI đã bị hủy hoại. Tổng thống Sukarno đã ban hành Thư Chính phủ Mười một tháng ba (Supersemar) cho Trung tướng Suharto. Với việc phát hành Supersemar, chính phủ Trật tự cũ đã kết thúc. Chính phủ Trật tự mới đã quyết tâm thực hiện nguyên tắc Pancasila và Hiến pháp năm 1945 một cách triệt để

Về nội dung:

Ban đầu, chính phủ trật tự mới đã thực thi một chính phủ định hướng phát triển dựa trên nguyên tắc Pancasila và Hiến pháp năm 1945. Ngay sau đó, GBHN được thành lập bởi chức năng MPR làm cơ sở để thực hiện phát triển. Sau một thời gian, thực tiễn nảy sinh những điểm mới so với Hiến pháp năm 1945. Cụ thể là:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/02/2023