Nội dung ôn tập
[1] Đường lối kinh tế của Đảng ta trong thời kỳ 1976-1985.
[2] Chính sách kinh tế và kết quả thực hiện trong giai đoạn 1976-1980.
[3] Chính sách kinh tế và kết quả thực hiện trong giai đoạn 1981-1985.
Nội dung thảo luận
[1] Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém của nền kinh tế Việt Nam trước thời kỳ đổi mới.
[2] Những kinh nghiệm rút ra từ thời kỳ 1976-1985 cho sự phát triển kinh tế nước ta thời kỳ đổi mới.
Có thể bạn quan tâm!
- Trong Lĩnh Vực Giao Thông Vận Tải Và Bưu Điện
- Trong Lĩnh Vực Tài Chính, Tiền Tệ Và Giá Cả
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 19
- Cơ Cấu Kinh Tế Việt Nam Giai Đoạn 1990-2015
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 22
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 23
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Chương 7
KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 ‐ 2016)
7.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ
7.1.1. Bối cảnh lịch sử
Từ đầu thập niên 1980, do khủng hoảng kinh tế thế giới, hầu hết các nước đã có sự điều chỉnh hoặc cải cách kinh tế ở những mức độ và hình thức khác nhau. Trong các nước tư bản phát triển, nội dung cơ bản của điều chỉnh chính sách kinh tế là tập trung phát triển các ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các công cụ và chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài khóa. Còn tại các nước đang phát triển, nhất là các nước thuộc khu vực Đông Á, Đông Nam Á đã thực hiện cải cách kinh tế và trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới.
Trong khối xã hội chủ nghĩa, các nước Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc đã lần lượt tiến hành cải tổ, cải cách nền kinh tế. Tuy cải tổ, cải cách diễn ra ở các nước này vào những thời điểm và với những mục tiêu khác nhau, nhưng nhìn chung đều có mục tiêu chung là hướng tới khắc phục sự trì trệ của nền kinh tế. Làn sóng cải cách, cải tổ kinh tế trên thế giới đã tác động mạnh đến Việt Nam.
Cũng trong thời gian này, toàn cầu hóa là hiện tượng nổi bật và trở thành xu thế phát triển chủ đạo của thế giới. Toàn cầu hoá đòi hỏi các quốc gia cần tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa cùng với những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học - công nghệ, của nền kinh tế tri thức đem đến cho nước ta cả những cơ hội và thách thức trong phát triển.
Ở Việt Nam, do duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế phát triển chậm và gặp rất nhiều khó
khăn. Để khắc phục tình trạng đó, vào những năm cuối thập niên 1970 và nửa đầu thập niên 1980, trên đất nước ta đã có những tìm tòi, thử nghiệm, đổi mới cục bộ để khắc phục sự trì trệ, đưa nền kinh tế đi lên. Tuy vậy những cải tiến, đổi mới mang tính thử nghiệm và cục bộ này chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn diễn ra trầm trọng. Vì vậy, đổi mới toàn diện, căn bản nền kinh tế bên cạnh những đổi mới trên các lĩnh vực khác của đất nước đã trở thành yêu cầu cấp bách đối với nước ta.
Đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước, tháng 12 năm 1986, Đảng ta đã tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật", Đảng quyết định đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp đổi mới. Khâu đầu tiên có tầm quan trọng đặc biệt là đổi mới về tư duy kinh tế. Đổi mới tư duy kinh tế một cách căn bản, toàn diện được nêu ra từ đại hội VI và ngày càng hoàn thiện qua các kỳ đại hội từ năm 1986 đến nay. So với các giai đoạn trước, đường lối về xây dựng, phát triển kinh tế đất nước có những thay đổi về chất.
7.1.2. Đường lối kinh tế
7.1.2.1. Mô hình kinh tế tổng quát
Nhận thức của Đảng ta về mô hình kinh tế tổng quát có ý nghĩa then chốt, quyết định con đường phát triển của đất nước. Trước đổi mới, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung được áp dụng trong suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trên phạm vi cả nước những năm 1976-1985. Đặc trưng của mô hình kinh tế này là chỉ thừa nhận chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất biểu hiện dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Tương ứng với hai hình thức sở hữu đó là hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể.
Tại Đại hội VI (tháng 12 năm 1986), mô hình kinh tế mới được đặt ra, thể hiện trong tư duy về thị trường và cơ chế thị trường. Nhưng vấn đề này chưa được khẳng định rõ nét và mới chỉ được xác định là phát triển kinh tế hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội VII (năm 1991), đường lối của Đảng xác định "bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" [Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 51, 2007, 55]. Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta xác định rõ sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đại hội này, vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được Đảng Cộng sản Việt Nam làm rõ hơn trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Thuật ngữ "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" chính thức được nêu trong văn kiện Đại hội IX (2001) với nội dung là "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [Văn kiện Đại hội IX, 2003, 86]. Từ đây, Đảng ta khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau đó, các Đại hội X (2006), XI (2011) đã xác định rõ và đầy đủ hơn về mô hình kinh tế mới cùng với cơ chế vận hành và cấu trúc của nó. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định rõ hơn trong Đại hội XII (2016) của Đảng. Đó là "nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh." [Văn kiện Đại hội XII, 2016, 102].
Cũng trong Đại hội XII, Đảng ta khẳng định rõ vai trò của kinh tế thị trường thể hiện ở bốn điểm: Vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực phát triển; thị trường là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đều phù hợp với cơ chế thị trường. Còn định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường thì thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội XII còn nêu mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 "cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế" [Văn kiện Đại hội XII, 2016, 104].
Như vậy, từ năm 1986 đến nay, nhận thức về mô hình kinh tế tổng quát của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn. Đảng ta khẳng định kinh tế thị trường là sự phát triển tất yếu, phù hợp với nước ta trong bối cảnh mới. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xác định rõ mục tiêu của Đảng là đưa đất nước tiến tới "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
7.1.2.2. Cơ chế quản lý kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế nước ta cho đến trước đổi mới là cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp. Đại hội VI đã thực sự đánh dấu bước ngoặt cơ bản, toàn diện và sâu sắc quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đại hội đã khẳng định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế và thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là "cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ" [Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 47, 2006, 746]. Đại hội VI còn chỉ ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đó là: Thực hiện tập trung dân chủ trong đổi mới kinh tế; đổi mới kế hoạch hóa; sử dụng tốt các đòn bẩy kinh tế; chính sách giá cả; chính sách tiền lương; đặc biệt chính sách tài chính tiền tệ trở thành trọng tâm của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Tuy vậy, ở đại hội này tư duy về cơ chế quản lý kinh tế mới vẫn chưa thoát khỏi tư duy cũ; biểu hiện ở chỗ coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, trong khi sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ chỉ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới.
Trong các kỳ đại hội tiếp theo (từ Đại hội VII đến Đại hội XII), Đảng ta tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thực chất là quá trình đổi mới chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế; đổi mới các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô và tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Cụ thể là:
- Đổi mới chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
Nhà nước cần tập trung thực hiện các chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch... Hỗ trợ phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội. Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của thị trường. Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua các cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế... Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
- Đổi mới các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô
Đổi mới công tác kế hoạch hóa được cải tiến dần theo hướng chuyển từ kế hoạch hóa tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hóa gián tiếp. Nhà nước xây dựng hệ thống các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, đưa ra các chính sách, giải pháp lớn để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch. Nhà nước cần tập trung xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các chương trình và dự án lớn cho cả nước, từng vùng, từng lĩnh vực.
Đổi mới công cụ tài chính, tiền tệ theo hướng xây dựng chính sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính theo hướng thúc đẩy khai thác tiềm năng thiên nhiên và của các tầng lớp nhân dân; tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng khuyến khích sản xuất và đầu tư.
Phân định rõ chức năng của ngân hàng nhà nước và ngân hàng kinh doanh, ngân sách và tín dụng. Các ngân hàng thương mại thực sự chuyển sang kinh doanh, tự chủ về tài chính, áp dụng hình thức ngân hàng cổ phần. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số...
- Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất... Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Như vậy, từ năm 1986 đến nay (2016), quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta diễn ra từng bước theo hướng vừa làm, vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc hoàn thiện các chính sách và công cụ quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước vẫn đang là vấn đề cần được quan tâm hiện nay ở nước ta.
7.1.2.3. Cơ cấu kinh tế
a. Khôi phục, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.Tuy nhiên nhận thức về các thành phần và vai trò của chúng có sự biến đổi theo hướng ngày càng được hoàn thiện, phản ánh sát với quy luật vận động của lý luận và thực tiễn kinh tế của nước ta.
Trong Đại hội VI, Đảng ta chỉ ra 5 thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định qua các kỳ đại hội từ 1986 đến nay; nhưng về số lượng và tên gọi của các thành phần kinh tế thì có sự thay đổi nhất định. Kế thừa tinh thần Đại hội VI, Đại hội VII xác định nền kinh tế nước ta gồm có các thành phần: kinh tế quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân và tư bản nhà nước. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định nền kinh tế nhiều thành phần: kinh tế nhà nước; hợp tác xã; tư bản nhà nước; cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Đến Đại hội IX, tiếp tục khẳng định sự tồn tại của các thành phần: kinh tế nhà nước; tập thể; cá thể, tiểu chủ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội X khẳng định, nền kinh tế nước ta bao gồm 5 thành phần, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Văn kiện Đại hội XI đề cập đến 4 thành phần, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đến Đại hội XII thì không nêu các thành phần kinh tế cụ thể, mà chỉ tiếp tục khẳng định nước ta có nhiều thành phần kinh tế; đồng thời chỉ rõ: "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế" [Văn kiện Đại hội XII, 2016, 103].
Như vậy, từ Đại hội VI, Đảng ta quyết định khôi phục lại và xây dựng, phát triển một nền kinh tế có nhiều thành phần. Đây là sự đổi mới căn bản về chất đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ