Sơ Lược Lịch Sử Pháp Luật Về Tổ Chức Giới Thiệu Việc Làm Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam

Do đó, vào ngày 17/6/1948 tại San Franxisco, trong kỳ họp thứ 31, ILO đã cho ra đời Công ước số 88: "Công ước về tổ chức dịch vụ việc làm". Theo Công ước này, từ ngày 10/8/1950, mọi nước thành viên của ILO tham gia ký kết Công ước phải thực hiện dịch vụ việc làm công cộng và miễn phí. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan dịch vụ việc làm, theo tinh thần của Công ước là phải bảo đảm sự hiệp tác, nếu cần với các cơ quan công cộng và tư nhân hữu quan khác, tổ chức thị trường việc làm như một bộ phận khăng khít của một chương trình quốc gia, nhằm thực hiện và duy trì tình trạng mọi người đều có việc làm và nhằm phát triển, sử dụng các tài nguyên sản xuất.

Theo Công ước, dịch vụ việc làm được hợp thành một hệ thống quốc gia, những cơ quan việc làm đặt dưới sự kiểm soát của nhà chức trách có thẩm quyền. Hệ thống đó bao gồm mạng lưới những cơ quan việc làm địa phương, và nếu cần những cơ quan việc làm ở các vùng với số lượng đủ để phục vụ cho từng vùng địa lý, được đặt ở nơi thuận tiện cho người lao động và người sử dụng lao động. Các cơ quan dịch vụ việc làm phải có sự bố trí thích hợp bằng cách lập các hội đồng tư vấn nhằm bảo đảm sự hợp tác giữa các đại diện của người lao động và người sử dụng lao động trong việc tổ chức, điều hành dịch vụ việc làm, cũng như trong việc triển khai chính sách dịch vụ việc làm. Chính sách chung của dịch vụ việc làm là nhằm đưa người lao động đến nơi có việc làm và phải được ấn định sau khi đã tham khảo ý kiến các đại diện của người lao động và người sử dụng lao động thông qua các Hội đồng tư vấn. Cũng theo quy định của Công ước, dịch vụ việc làm phải [6]:

+ Giúp cho người lao động tìm được một việc làm thỏa đáng và giúp cho người sử dụng lao động tuyển chọn được lao động thích hợp;

+ Có những biện pháp thích hợp để tạo điều kiện dễ dàng cho sự di chuyển về nghề nghiệp, về địa lý (trong vùng hoặc liên vùng, liên quốc gia) nhằm giải quyết sự mất cân đối cung cầu về lao động giữa các ngành nghề, các vùng, các quốc gia theo sự thỏa thuận của các Chính phủ hữu quan;

+ Thu thập và phân tích mọi thông tin về tình hình thị trường việc làm và khả năng diễn biến của thị trường đó trên toàn quốc cũng như trong các ngành nghề, các vùng lãnh thổ, chuyển các thông tin đó một cách có hệ thống và nhanh chóng tới các nhà chức trách, tới các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động cũng như tới công chúng;

+ Cộng tác trong việc quản lý sự nghiệp bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp thất nghiệp và trong việc áp dụng những biện pháp khác nhằm giúp đỡ người thất nghiệp;

+ Giúp đỡ ở mức cần thiết cho các cơ quan công cộng và tư nhân trong việc soạn thảo các kế hoạch kinh tế - xã hội nhằm tác động thuận lợi đến vấn đề việc làm.

Công ước cũng khuyến nghị các nước thành viên phải có những biện pháp để tạo điều kiện cho các phòng việc làm được chuyên môn hóa theo ngành nghề và đáp ứng một cách thỏa đáng những nhu cầu về các dạng tìm việc làm đặc biệt như tìm việc làm cho người tàn tật.

Với những quy định tiến bộ trên, Công ước số 88 đã hoàn thiện thêm một bước hết sức tiến bộ các quy định về "Phòng tìm việc làm có thu phí", bởi lúc này hầu hết các nước trên thế giới đều có văn phòng GTVL, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa như ở Liên Xô (cũ).

Vậy là, sự ra đời của Công ước 88 đã một lần nữa khẳng định rõ hơn vai trò không thể thiếu được của các tổ chức GTVL đối với thị trường lao động ở các nước trên thế giới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Giai đoạn từ 1977 đến nay

Cùng với quá trình phát triển của kinh tế thế giới, thị trường lao động ở các nước trên thế giới cũng phát triển rất nhanh. Lúc này, yêu cầu của người sử dụng lao động đặt ra đối với người lao động cũng được nâng lên một bước, người sử dụng lao động không chỉ có nhu cầu về nguồn nhân lực, mà họ còn

Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay - 5

đòi hỏi người lao động phải là những người có trình độ chuyên môn, tay nghề phù hợp với công việc mà họ cần thuê.

Bên cạnh đó, sự phát triển dịch vụ việc làm ở thập kỷ 60 và những năm đầu thập kỷ 70 tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể, song cũng vẫn tồn tại một số bất cập nhất định. Nhiều khi người lao động tìm việc không được qua đào tạo hoặc nếu có được qua đào tạo thì lĩnh vực chuyên môn được đào tạo lại không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Chính vì điều này, tại Hội nghị toàn thể của ILO diễn ra vào ngày 4/6/1970 ở Giơ-ne- vơ, Công ước số 142 "Công ước về hướng nghiệp và đào tạo nghề trong việc phát triển nguồn nhân lực" đã ra đời và chính thức có hiệu lực từ ngày 19/7/1977 tại các nước thành viên tham gia ký kết Công ước.

Công ước quy định:

Mỗi nước thành viên đều phải chấp thuận và triển khai những chính sách, những chương trình hoàn chỉnh có phối hợp về hướng nghiệp, đào tạo nghề và phải thiết lập thông qua các các cơ quan dịch vụ công cộng về việc làm một mối liên hệ chặt chẽ giữa hướng nghiệp, đào tạo nghề và việc làm.

Những chính sách và chương trình này phải lưu ý tới những nhu cầu, khả năng và những vấn đề về việc làm ở cả cấp vùng và cấp toàn quốc, trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa và mối tương quan giữa các mục tiêu khai thác tài nguyên, nhân lực với các mục tiêu kinh tế - xã hội và văn hóa khác [7].

Vậy là, tổ chức GTVL theo Công ước số 142 không chỉ có chức năng làm cầu nối trung gian giữa người lao động và người sử dụng lao động, mà còn phải thực hiện thêm một chức năng nữa đó là hướng nghiệp, đào tạo, dạy nghề cho người lao động. Với chức năng này thì các tổ chức GTVL mới thực sự đáp ứng những yêu cầu của thị trường lao động, đó là cung cấp cho thị

trường lao động những người lao động có đủ trình độ chuyên môn, tay nghề,…phù hợp thực tiễn đặt ra.

Đến năm 1988, tại Hội nghị toàn thể của ILO diễn ra ở Giơ-ne-vơ ngày 1/6/1988, trong kỳ họp thứ 75, tiếp tục cho ra đời Công ước số 168 "Công ước về Xúc tiến việc làm và bảo vệ chống thất nghiệp, 1988". Theo tinh thần của Công ước này, các quốc gia thành viên của Công ước của ILO tiến hành xúc tiến việc làm, chống thất nghiệp đưa ra những biện pháp đặc biệt bảo đảm trợ cấp thất nghiệp thông qua mạng lưới dịch vụ việc làm.

Công ước cũng khuyến nghị các nước thành viên của ILO có những biện pháp hữu hiệu nhằm tạo việc làm cho các đối tượng đặc biệt như lao động nữ, lao động bị khuyết tật, lao động dôi dư do thay đổi cơ cấu… [8].

Như vậy, qua việc tìm hiểu một số Công ước của Công ước của ILO về sự hình thành và phát triển của tổ chức GTVL. Ta có thể khẳng định rằng: Tổ chức GTVL có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của thị trường lao động nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Trên cơ sở các Công ước này, các nước thành viên của của ILO đã xây dựng cho mình một hệ thống tổ chức GTVL thống nhất, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội và thị trường lao động của nước mình đồng thời cũng không trái với nội dung của các Công ước đó.

1.2.2.2. Sơ lược lịch sử pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Kể từ năm 1986, đất nước ta thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế, chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều này đã làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, trong đó có vấn đề việc làm. Nếu như trước năm 1986, việc làm do Nhà nước phân bổ, người dân không phải tự mình tìm kiếm việc làm, sức lao động không được thừa nhận là hàng hóa. Thì từ khi thực hiện chủ trương đổi mới, Nhà nước khuyến khích người lao động tự lo việc làm

cho mình và cho người khác. Điều này cũng có nghĩa là, sức lao động đã được thừa nhận là một loại hàng hóa đặc biệt, có thể đem ra mua và bán trên thị trường lao động. Sự gia tăng dân số quá nhanh, cùng với việc hàng năm có hàng ngàn bộ đội xuất ngũ, hàng trăm ngàn học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường, cùng với những người chưa có việc làm do tinh giảm biên chế, hàng triệu người thiếu việc làm ở nông thôn v.v… đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy cung về lao động ở thị trường lao động nước ta lúc này là quá lớn. Trong khi đó, cầu về lao động của các cơ quan, doanh nghiệp lại tăng chậm do tốc độ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh còn chưa cao. Hơn nữa việc tìm kiếm việc làm của người lao động cũng như việc thuê mướn lao động của người sử dụng lao động gặp nhiều khó khăn do những yêu cầu về văn hóa, trình độ chuyên môn, ngành nghề được đào tạo… Tất cả những điều đó đòi hỏi phải có một khâu trung gian môi giới việc làm. Từ đó, tổ chức GTVL ra đời và xuất phát trên cơ sở những nhu cầu cấp thiết của thực tiễn. Sự phát triển của tổ chức GTVL ở nước ta có thể chia ra làm các giai đoạn sau:

Giai đoạn từ năm 1986 - 1991

Năm 1986, là một dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển của đất nước đó là năm mà nền kinh tế của nước ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đã làm cho nhu cầu tìm việc và nhu cầu tuyển dụng, thuê mướn lao động xuất hiện ngày càng nhiều. Thị trường lao động được hình thành. Người lao động được tự do tìm việc làm, người sử dụng lao động được tự do thuê mướn nhân công.

Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết về việc làm và phát triển nguồn lao động do quá trình chuyển đổi nền kinh tế như đã đề cập ở trên. Vào cuối những năm

80, tại một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh … đã bắt đầu manh nha hình thành các trung tâm, văn phòng môi giới, dạy nghề và GTVL qua sự cộng tác của Sở LĐTB&XH và Đoàn thanh niên địa phương. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các tổ chức GTVL ở nước ta.

Tổ chức GTVL đầu tiên xuất hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 11/1987, với tên gọi là "Văn phòng giao dịch giới thiệu việc làm". Nhiệm vụ chính của văn phòng này là giải quyết việc làm cho người lao động có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Ngoài ra, văn phòng còn có nhiệm vụ điều tra tâm lý về việc làm, giải thích các chính sách lao động. Sau 9 tháng hoạt động, văn phòng đã nhận được 6.500 đơn đăng ký xin việc làm và đã giới thiệu được 5.500 người, giải quyết việc làm cho 4.095 lao động [29].

Mặc dù hoạt động của các văn phòng tại thời điểm này đã có những kết quả đáng khích lệ. Nhưng về mặt pháp lý, Nhà nước vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực hết sức quan trọng này ngoài Quyết định số 174-HĐBT ngày 9/10/1989 về sắp xếp lại đơn vị kinh tế quốc doanh, đã đề cập đến việc nghiên cứu cơ chế, chính sách đối với hệ thống trung tâm đào tạo, đào tạo lại và GTVL.

Giai đoạn từ năm 1992 - 1994

Năm 1990, nền kinh tế của nước ta đã có những bước chuyển biết rất rõ rệt, thị trường lao động ngày càng phát triển và sôi động hơn. Mong muốn của người lao động, người sử dụng lao động, cũng như từ phía Nhà nước là tổ chức GTVL cần phải được hoàn thiện hơn trước nhằm giải quyết tốt mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động. Bởi vì, quyền và nghĩa vụ đó chỉ được thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để khi có sự can thiệp từ phía Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức xã hội đối với các hoạt động của các tổ chức GTVL.

Xuất phát từ những đòi hỏi trên, ngày 11/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị quyết số 120 về "Chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm trong các năm tới". Trong đó có nêu rõ: "…cần mở rộng và phát triển các "Trung tâm Dạy nghề và Dịch vụ việc làm" ở một số ngành, tổ chức, tổ chức xã hội và địa phương có yêu cầu lớn về dạy nghề, trước hết cho thanh niên đến tuổi lao động…". Nghị quyết cũng nêu rõ: Bộ LĐTB&XH phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng quy chế dạy nghề và dịch vụ việc làm, hướng dẫn chỉ đạo hệ thống các trung tâm này; đồng thời tăng cường liên kết với các trường đào tạo và dạy nghề để sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có và đảm bảo chất lượng dạy nghề; mở rộng quan hệ và tham gia các tổ chức lao động, xã hội quốc tế và khu vực để phát triển công tác quản lý lao động và các vấn đề xã hội…[24].

Theo tinh thần của Nghị quyết 120, Nhà nước đã cho thành lập thí điểm một số trung tâm dạy nghề và GTVL. Song song với việc làm trên, Nhà nước cũng đưa ra chương trình tổng thể giải quyết việc làm ở thành thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, hướng vào việc giải quyết việc làm cho lao động dôi ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sắp xếp lại lao động trong khu vực nhà nước, bộ đội xuất ngũ, lao động nước ngoài trở về, thanh niên mới đến tuổi lao động, trong đó có chương trình đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề gắn với dịch vụ giới thiệu, tư vấn, cung ứng lao động thông qua các dự án phát triển trung tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm.

Từ năm 1993, các "Trung tâm Dạy nghề và Dịch vụ việc làm" được đổi tên thành "Trung tâm Xúc tiến việc làm" và có quy chế hoạt động thống nhất theo Quyết định số 146/LĐTBXH-QĐ ngày 17/3/1993 của Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH. Theo quy chế này các Trung tâm Xúc tiến việc làm có nhiệm vụ sau [20]:

1. Tổ chức dạy nghề xã hội, dịch vụ dạy nghề, đào tạo lại, bồi dưỡng tay nghề theo nhu cầu của thị trường lao động.

2. Tổ chức dịch vụ GTVL

3. Điều tra nắm tình hình việc làm, nghề nghiệp trên địa bàn, tổng hợp các số liệu về lao động, thất nghiệp, số người đã được giải quyết việc làm, phát triển đánh giá và khuyến nghị về biện pháp giải quyết việc làm.

4. Thực hiện việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ mới gắn với dự án nhỏ cho vay vốn giải quyết việc làm, nhất là hướng chuyển giao công nghệ vào nông thôn để phát triển nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, khôi hục và phát triển nghề cổ truyền.

5. Tổ chức việc làm tại trung tâm. Khi người lao động có đủ điều kiện và năng lực về vốn, kỹ thuật và công nghệ thì tách khỏi trung tâm. Hình thức hoạt động này phải theo đúng luật pháp hiện hành.

6. Kết hợp dạy nghề, tổ chức sản xuất, dịch vụ với quy mô nhỏ để tận dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật; kết hợp lý thuyết và thực hành, đồng thời tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động của trung tâm và giải quyết các mục tiêu xã hội.

7. Giữ gìn và bảo quản tốt tài sản của trung tâm, báo cáo định kỳ hàng năm và đột xuất (khi cần) về toàn bộ hoạt động của trung tâm cho cơ quan quản lý cấp trên và Bộ LĐTB&XH.

Các trung tâm này sau khi được thành lập đã đi vào hoạt động và đóng góp một phần không nhỏ vào việc giải quyết việc làm cho người lao động. Từ khi ra đời cho đến năm 1992, trung bình mỗi năm các trung tâm đã tư vấn cho 20 - 25 vạn người, dạy nghề cho 13 vạn người, GTVL cho 14 vạn người, hướng dẫn cho 14 vạn nông dân cánh làm ăn [30].

So với các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm giai đoạn trước, trung tâm xúc tiến việc làm đã đảm nhiệm thêm một số chức năng, trong đó có chức năng thực hiện các dự án giải quyết việc làm trong Chương trình việc làm quốc gia. Đây là loại trung tâm sự nghiệp, thực hiện chức năng xã hội là chủ yếu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/10/2024