nghĩa xã hội, từ một nền kinh tế chỉ có hai thành phần nay là một nền kinh tế có nhiều thành phần. Về thực chất quan điểm này là sự tiếp tục nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nó luôn được khẳng định là một nội dung - một chiến lược quan trọng trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thời kỳ đổi mới. Chỉ có điều, ở mỗi kỳ đại hội, việc xác định có bao nhiêu thành phần kinh tế cụ thể thì có sự thay đổi. Sự thay đổi này phản ánh quá trình nhận thức của Đảng ta về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn với thực tiễn kinh tế đất nước.
Bên cạnh việc xác định xây dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần Đảng ta còn chỉ rõ các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật và là những bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng ta còn xác định rõ vai trò của kinh tế Nhà nước: "Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân" [Văn kiện Đại hội đại X, 2006, 83].
b. Cơ cấu ngành kinh tế
Trước đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp tiên tiến, hiện đại. Đến Đại hội VI, cơ cấu kinh tế đã được điều chỉnh theo hướng thiết thực, phù hợp hơn; đó là tập trung xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đưa nông nghiệp lên vị trí hàng đầu; nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp; còn công nghiệp nặng phát triển có chọn lọc, phù hợp, nhằm phục vụ đắc lực cho ba chương trình kinh tế lớn. Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (họp ngày 19 tháng 3 năm 1989), dịch vụ được đưa vào cơ cấu các ngành kinh tế và được xác định là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Đây là bước tiến quan trọng trong tư duy về xây dựng cơ cấu kinh tế.
Đại hội VII, Đảng ta chủ trương điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóa; đẩy nhanh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật. Yêu cầu đặt ra đối với công nghiệp hóa giai đoạn này không chỉ đơn thuần là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với quá trình đổi mới căn bản về công nghệ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác định rõ: khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Từ Đại hội VIII (tháng 6 năm 1996), Đảng ta chủ trương phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; mở rộng thương nghiệp, du lịch và dịch vụ. Điểm mới trong nhận thức về cơ cấu kinh tế là phát triển nhanh các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là du lịch và thương mại, nhằm từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực. Đại hội IX chủ trương đưa nông, lâm, ngư nghiệp phát triển lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học. Với công nghiệp thì vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ (thương mại, thương mại điện tử, vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, v.v...). Sớm phổ cập tin học và Mạng thông tin quốc tế (Internet) trong đời sống kinh tế - xã hội.
Cơ cấu lại nền kinh tế là một chủ trương lớn, quan trọng của Đại hội
XI. Theo đó, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế mà trọng tâm là cơ cấu các ngành sản xuất, dịch vụ, phù hợp với từng vùng được quan tâm đặc biệt. Trong đó, phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển các ngành dịch vụ,
nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Tiếp tục chủ trương đó, Đại hội XII nêu ra các định hướng và giải pháp nhằm cơ cấu lại nền kinh tế. Đảng ta khẳng định rõ: tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng. Cụ thể là cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh lại cơ cấu công nghiêp tạo nền tảng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh các ngành dịch vụ... Đây là một quá trình liên tục, thường xuyên, vừa cấp bách trước mắt, vừa lâu dài; theo phương hướng cơ cấu kinh tế vừa khai thác lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để hình thành và xây dựng các lợi thế cạnh tranh trong tương lai ở một số ngành công nghệ cao, công nghiệp hiện đại, ngành dịch vụ có tiềm năng để đưa nền kinh tế của nước ta đạt trình độ phát triển cao hơn.
7.1.2.4. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trước đổi mới, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến khuynh hướng ham xây dựng công nghiệp nặng, quy mô lớn và thiên về xây dựng mới, gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội VI đã đề ra chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư giữa các ngành kinh tế, cụ thể hóa một bước quan trọng chiến lược công nghiệp hóa đất nước. Đại hội đã xác định cần tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu) và coi đây là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 năm 1994), lý luận mới về công nghiệp hóa có sự thay đổi căn bản. Đảng ta chủ trương công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, coi đó là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Do đó, công nghiệp hóa gắn liền
với hiện đại hóa trở thành một nhu cầu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam có một số nội dung chủ yếu sau:
- Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đại hội VIII xác định rõ: "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" [Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 55, 2015, 366]. Đại hội VIII còn xác định nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XII điều chỉnh mục tiêu: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [Văn kiện Đại hội XII, 2016, 89]; đồng thời xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại và chỉ rõ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành
qua 3 bước1.
- Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Được điều chỉnh theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được coi trọng đặc biệt. Về nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX nêu 4 chủ trương lớn: phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa - xã hội và phát triển nguồn nhân lực.
1 Trong đó: Bước 1, tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bước 2, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bước 3, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Con đường và bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tại Đại hội IX, Đảng ta đã đưa ra nhận định quan trọng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm và con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta "cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt" [Văn kiện Đại hội IX, 2003, 91]. Đại hội X chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Như vậy, từ năm 1986 đến nay, đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên tục được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước và xu hướng phát triển của thế giới. Sự đột phá trong tư duy của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện rõ nét trong chủ trương chuyển mô hình công nghiệp hóa từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang công nghiệp hóa sử dụng những yếu tố hợp lý của kinh tế thị trường; chuyển từ quá trình công nghiệp hóa "khép kín" theo mô hình thay thế nhập khẩu sang thực hiện công nghiệp hóa gắn liền với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng mạnh vào xuất khẩu; từng bước đổi mới cách thực hiện công nghiệp hóa (chuyển công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang gắn liền với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa gắn liền hiện đại hóa).
7.1.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế
Đại hội VI khẳng định cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại; thực hiện "mở cửa" để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại. Đại hội VII là cột mốc đánh dấu những chuyển biến quan trọng có tính đột phá về nền kinh tế mở: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" [Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 52, 2007, 134]. Ý nghĩa của những đổi mới quan điểm và chủ trương về hội nhập kinh tế trên đây là hết sức to lớn trong bối cảnh mới của công cuộc đổi mới đất nước: phá thế
bao vây cấm vận, thiết lập và tái thiết lập các quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế, mở đường cho những bước đổi mới tiếp theo.
Bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập được Đảng ta nhấn mạnh hơn: "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" [Văn kiện Đại hội lần thứ IX, 2003, 166]. Để cụ thể hóa tinh thần này, ngày 27 tháng 11 năm 2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc tế". Nghị quyết đã nêu những quan điểm cơ bản chỉ đạo tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức; cần tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường; kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng.
Tinh thần chủ động hội nhập quốc tế được đại hội X phát triển và nâng lên một bước cao hơn: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác" [Văn kiện Đại hội X, 2006, 112]. Tư duy nhận thức của Đảng về hội nhập đã có bước phát triển toàn diện hơn trước. Khẳng định và làm sâu sắc hơn tinh thần này, ngày 10 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW "Về hội nhập quốc tế". Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết xác định rõ hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế. Trong bối cảnh mới, đại hội XII đã nâng mục tiêu đối ngoại lên một tầm cao mới theo tinh thần "Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc..., thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển;... chủ động và tích cực hội nhập quốc tế" [Văn kiện Đại hội XII, 2016, 153]. Những chủ trương này nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế và thu hút đầu tư của nước ngoài, kết hợp các nguồn lực bên trong với bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
7.2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ
7.2.1. Những thành tựu cơ bản
7.2.1.1. Thành tựu chung
a. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ năm 1986 đến nay nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục, có nhiều năm đạt tốc độ tăng trưởng cao. Trong những năm 1986-1990, tốc độ tăng trưởng còn thấp và chưa ổn định. GDP tăng bình quân 3,9%/năm. Nguyên nhân chủ yếu là do những khó khăn của khu vực kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và bị ảnh hưởng nghiêm trọng của lạm phát. Tiếp theo từ năm 1991 đến năm 1995, nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân đạt 7%/năm, đạt đỉnh cao nhất là 9,5% (1995). Tiếp theo trong giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể, GDP tăng bình quân 6,9%/năm. Nguyên nhân chính là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 giảm xuống chỉ đạt 4,8%. Tuy nhiên, tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 1996-2000 và chiến lược 10 năm (1991-2000) đều đạt và vượt kế hoạch.
Từ năm 2001, nền kinh tế đã lấy lại đà tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng bình quân (2001-2005) là 7,5%/năm, giai đoạn 2006-2010 là 7,0%/năm. Đó là kết quả của việc thực hiện các chương trình cải cách kinh tế và đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Từ năm 2013 tốc độ dần được phục hồi, mức tăng năm sau cao hơn năm trước; GDP bình quân tăng trên 5,9%/năm. Năm 2016, tăng trưởng đạt cao hơn con số bình quân thời kỳ 2011-2015, cụ thể là: 6,21% (2016). Tuy chưa đạt mục tiêu đề ra (6,7%), song đây là tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế Việt Nam sau nhiều năm bị suy giảm. Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn này thấp hơn giai đoạn 2006-2010, nhưng Việt Nam vẫn đứng vào hàng các quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao của khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế thể hiện qua chỉ tiêu GDP ngày càng được mở rộng, năm 2015 đạt 193,4 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng
2.109 USD.
Tăng trưởng kinh tế liên tục và nhiều năm đạt mức khá cao trong 30 năm đổi mới là kết quả của việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng. Đường lối này được thể chế hoá qua các bộ luật là Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật Công ty (1990), Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1987-2000), Luật Phá sản (1993-2014), Luật Doanh nghiệp Nhà nước (1995-2003), Luật Thương mại (1997-2005), Luật Đầu tư (2005-2014)...
b. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Từ năm 1986 đến 2016, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy còn chậm nhưng xu hướng tương đối rõ, nhất là cơ cấu ngành kinh tế. Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã thúc đẩy sự phát triển khá nhanh các khu vực kinh tế cá thể, tư nhân, đồng thời đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của các khu vực kinh tế (theo giá hiện hành) trong GDP đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của công nghiệp - xây dựng - dịch vụ, giảm khu vực nông - lâm - thủy sản. Cụ thể: tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực nông - lâm và thủy sản trong GDP giảm từ 18,83% (2010) xuống 17% (2015); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 32,13% lên 33,25%; khu vực dịch vụ tăng từ 36,94% lên 39,73% (Bảng 5.1). Đây là sự chuyển dịch cơ cấu đúng hướng, phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bảng 7.1. Cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2015
(Đơn vị: %)
Nông, lâm, thủy sản | Công nghiệp và xây dựng | Dịch vụ | |
1990 | 38,74 | 22,67 | 38,59 |
1995 | 27,18 | 28,76 | 44,06 |
2000 | 24,53 | 36,73 | 38,74 |
2005 | 20,79 | 41,02 | 38,01 |
2010 | 20,58 | 41,09 | 38,33 |
2015 | 17,00 | 33,25 | 39,73 |
Có thể bạn quan tâm!
- Trong Lĩnh Vực Tài Chính, Tiền Tệ Và Giá Cả
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 19
- Bối Cảnh Lịch Sử Và Đường Lối Kinh Tế
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 22
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 23
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 24
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Nguồn: [Tổng cục Thống kê]