Z. Michelle (2009), “Chuyển sang học chế tín chỉ: Cần thay đổi chương trình đào tạo và vai trò của giáo viên” [51] nhấn mạnh việc phải chú trọng đến một số kỹ năng cần hình thành cho sinh viên năm cuối, đây là thời điểm mà kết quả học tập của họ cần khớp với mục tiêu học tập. Tác giả đề xuất các biện pháp khi xây dựng các môn học và tín chỉ phản ánh nội dung học tập, kỹ năng và nỗ lực tương đương nhau trên phạm vi quốc tế. Việc giảng dạy và học tập đem lại kết quả về kỹ năng và kiến thức tương đương với kết quả đào tạo của các cơ sở giáo dục khác.
F. H. Allyson & H. W. Philip (2012), Thúc đẩy các kỹ năng học tập ở sinh viên đại học[89], đã đưa ra mô hình phát triển kỹ năng học tập cho sinh viên đại học gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: Xác định chính xác và đầy đủ nhiệm vụ học tập; giai đoạn 2: lập kế hoạch, đặt ra các mục tiêu, yêu cầu; giai đoạn 3: thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu; giai đoạn 4: đánh giá và điều chỉnh nhiệm vụ học tập. Trong mỗi giai đoạn, sinh viên đều phải tự đánh giá, tự điều chỉnh, tự quản lý hoạt động học tập.
S. K. Alka và R. Lakshmy (2014), "Hệ thống tín chỉ dựa trên sự lựa chọn: Lợi hay hại?" [88], đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả học tập theo học chế tín chỉ gồm: Tổ chức quy mô lớp học với sĩ số vừa phải (khoảng 50 sinh viên/lớp); bổ nhiệm trợ giảng cho mỗi tiết học để hỗ trợ giảng viên trong việc đánh giá sinh viên; nên ra đề thi theo hướng đánh giá khả năng hiểu của sinh viên, không cần sinh viên học thuộc lòng; giảng viên nên đưa ra các chủ đề cho sinh viên tự học; cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động học tập theo tín chỉ.
S.Y. McGuire (2015), Cách học của sinh viên: Các chiến lược có thể kết hợp vào bất kỳ khoa học nào để cải thiện siêu nhận thức, kỹ năng học tập và động lực của sinh viên [115], đã chỉ ra rằng có thể cải thiện kỹ năng học tập của sinh viên bằng cách giảng dạy các giờ lý thuyết trên lớp về quy trình học tập. Sinh viên cần xem trước tài liệu trước khi tham gia học tập trên lớp, tích cực tham gia vào các hoạt động tranh luận trong học tập.
Đặng Xuân Hải (2007), "Về tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của sinh viên và giảng viên trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ” [31], cho rằng: giảng
viên phải thường xuyên kiểm tra kỹ năng đọc tài liệu tham khảo nói riêng và quá trình tự học của sinh viên nói chung và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học theo học chế tín chỉ [31, tr.7].
Nguyễn Tuấn Khanh (2017), Rèn luyện kỹ năng học tập cho sinh viên trong đào tạo theo tín chỉ [42] đã đề xuất quy trình rèn luyện KNHT theo HCTC cho sinh viên thông qua ba con đường là dạy học chuyên đề "Rèn luyện KNHT cho sinh viên trong đào tạo theo tín chỉ"; qua dạy học bộ môn và thông qua công tác cố vấn học tập. Cả ba quy trình đều hướng đến việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm.
Phạm Thành Vinh (2018), “Một số biện pháp tăng cường khả năng tự học cho sinh viên khi học theo học chế tín chỉ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An” [85], đưa ra một số biện pháp tăng cường khả năng tự học cho sinh viên khi học theo học chế tín chỉ, trong đó tác giả nhấn mạnh việc bồi dưỡng kỹ năng tự học và kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên.
Có thể bạn quan tâm!
- Kỹ năng học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên ở các học viện, trường đại học Công an nhân dân - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Vai Trò Của Kỹ Năng Học Tập
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Biểu Hiện Của Kỹ Năng Học Tập Theo Học Chế Tín Chỉ
- Đào Tạo Theo Học Chế Tín Chỉ Tại Các Học Viện, Trường Đại Học Công An Nhân Dân
- Hoạt Động Học Tập Theo Học Chế Tín Chỉ Của Sinh Viên Ở Các Học Viện, Trường Đại Học Công An Nhân Dân
- Kỹ Năng Học Tập Theo Học Chế Tín Chỉ Của Sinh Viên Ở Các Học Viện, Trường Đại Học Công An Nhân Dân
Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.
Nguyễn Thúy Vân (2021), Phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong dạy học theo học chế tín chỉ ở trường đại học[83], cho rằng có thể phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong học tập theo tín chỉ bằng cách bồi dưỡng kiến thức tự học cho sinh viên thông qua chuyên đề phát triển năng lực tự học và thông qua tương tác dạy học học phần.
Nghiên cứu của tác giả Bùi Ngọc Lâm (2014), Kỹ năng lập kế hoạch học tập theo tín chỉ [46], đã chỉ ra quy trình và biện pháp phát triển kỹ năng lập kế hoạch học tập cho sinh viên, nếu đáp ứng được những điều kiện bên trong của sinh viên và tạo ra môi trường trải nghiệm, cơ hội rèn luyện của chính sinh viên thì sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển kỹ năng lập kế hoạch học tập của sinh viên trong đào tạo tín chỉ.
Tóm lại, có rất nhiều công trình nghiên cứu về KNHT theo HCTC nói chung và các KNHT theo HCTC cụ thể. Các tác giả đều thống nhất khẳng định
vai trò quan trọng của KNHT theo HCTC đôi với hiệu quả hoạt động học tập của sinh viên. KNHT theo HCTC được biểu hiện thông qua nhiều kỹ năng thành phần, trong đó các tác giả chủ yếu đề cập đến các kỹ năng lập kế hoạch học tập, kỹ năng tự học, kỹ năng học tập nhóm, kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Nhiều biện pháp phát triển KNHT theo HCTC nói chung cũng như phát triển các KNHT theo HCTC cụ thể được đề xuất. Điểm chung của các công trình là đều nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học theo học chế tín chỉ theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về KNHT theo tín chỉ của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND và phân tích sự khác biệt đặc thù so với KNHT của sinh viên theo niên chế.
1.3. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu
1.3.1. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan
Phân tích các tài liệu về kỹ năng học tập, KNHT theo HCTC của sinh viên, chúng tôi rút ra các nhận xét sau:
Kỹ năng nói chung và kỹ năng học tập nói riêng của sinh viên là vấn đề được rất nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, từ việc nghiên cứu ảnh hưởng, biểu hiện đến các biện pháp phát triển kỹ năng học tập.
KNHT theo HCTC được cấu thành bởi nhiều kỹ năng thành phần. Trong đó một số kỹ năng được quan tâm nghiên cứu là: kỹ năng lập kế hoạch học tập, kỹ năng tự học, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng học tập hợp tác, kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, kỹ năng học tập các môn học cụ thể.
KNHT theo HCTC có vai trò quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động học tập theo HCTC của sinh viên. Hoạt động học tập theo HCTC của sinh viên đạt hiệu quả cao khi các kỹ năng học tập thành phần được thực hiện tốt. Tuy nhiên các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu về đặc điểm và bản chất tâm lý của kỹ năng học tập theo tín chỉ, các thành phần cơ bản cấu thành kỹ năng học tập của sinh viên xét về phương diện tâm lý học. Các công trình chủ yếu đưa ra phương pháp, lời khuyên hoặc từ thực nghiệm rút ra kết luận.
Các tác giả cũng đã đề xuất rất nhiều phương pháp tổ chức hoạt động dạy học để nâng cao kỹ năng học tập của sinh viên, tuy nhiên ít tác giả làm rõ cách thức, quy trình tổ chức rèn luyện KNHT theo HCTC cho sinh viên. Mặt khác, công cụ để rèn luyện KNHT theo HCTC cho sinh viên chưa được thiết kế cụ thể.
Các công trình nghiên cứu về kỹ năng học tập nói chung, kỹ năng học tập cụ thể nói riêng đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận vào thực tiễn và giải quyết được nhiều vấn đề cấp thiết của thực tiễn giáo dục ở Việt Nam trong điều kiện đào tạo theo HCTC đang được thực hiện phổ biến ở các trường đại học.
Hiện nay, các học viện, trường đại học CAND đã tiến hành đồng bộ hình thức đào tạo theo HCTC. Do tính chất đặc thù về mục tiêu đào tạo, môi trường đào tạo, nội dung, chương trình đào tạo… việc tổ chức đào tạo theo HCTC của các học viện, trường đại học CAND vừa mang đặc điểm chung của đào tạo theo HCTC, vừa mang những đặc điểm riêng của ngành Công an. Hiện nay chưa có công trình nào đề cập đến KNHT theo HCTC của sinh viên tại các cơ sở đào tạo này. Đây là một lĩnh vực rất cần được quan tâm nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học của ngành Công an, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu giữ gìn an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự an toàn xã hội hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu luận án “Kỹ năng học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên ở các học viện, trường đại học Công an nhân dân”, chúng tôi xác định những vấn đề cần giải quyết như sau:
Thứ nhất, xây dựng, hệ thống hóa khái niệm công cụ để phục vụ cho quá trình nghiên cứu luận án như: kỹ năng; kỹ năng học tập; kỹ năng học tập theo học chế tín chỉ; sinh viên CAND; KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND.
Thứ hai, xác định những thành tố của KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND; biểu hiện, tiêu chí đánh giá
KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND. Trong phạm vi luận án, KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND là vấn đề trọng tâm. Để khảo sát được thực trạng KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND được khách quan, khoa học, từ đó làm cơ sở đề xuất các giải pháp, đòi hỏi phải xác định được biểu hiện cụ thể từng KNHT thành phần, xây dựng tiêu chí đánh giá các kỹ năng.
Thứ ba, xác định các yếu tố ảnh hưởng tới KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố. Hoạt động học tập của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá các yếu tố này là cơ sở quan trọng để tìm hiểu nguyên nhân thực trạng, đề xuất các giải pháp nâng cao kỹ năng học tập theo HCTC cho sinh viên.
Thứ tư, khảo sát thực trạng KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND. Luận án cần sử dụng đa dạng các phương pháp để khảo sát thực trạng KNHT theo HCTC của sinh viên như quan sát, điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, nghiên cứu sản phẩm hoạt động… Từ kết quả khảo sát thực trạng, đề xuất các biện pháp tâm lý sư phạm để nâng cao các kỹ năng còn yếu.
Thứ năm, tổ chức thực nghiệm tác động nhằm chứng minh tính khả thi, đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp tâm lý sư phạm nhằm phát triển KNHT theo HCTC cho sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND.
Kết luận chương 1
Kỹ năng học tập nói chung, KNHT theo HCTC nói riêng là vấn đề được các nhà tâm lý học, giáo dục học nước ngoài và Việt Nam rất quan tâm nghiên cứu. Kết quả các công trình nghiên cứu về KNHT, KNHT theo HCTC trong thời gian qua đã góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm hệ thống lý luận, thực tiễn về KNHT và KNHT theo HCTC.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra được các biểu hiện của KNHT và KNHT theo HCTC của sinh viên; các biện pháp phát triển KNHT cho sinh viên. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu của các tác giả chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến KNHT theo HCTC của các nhóm khách thể học tập tại các học viện, trường đại học CAND.
Mỗi công trình nghiên cứu hay bài báo khoa học đều có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng tôi tổng hợp, chọn lọc, so sánh, kế thừa, từ đó có thể khái quát các biểu hiện của KNHT, làm tiêu chí đánh giá KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND.
Trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về KNHT và KNHT theo HCTC, chúng tôi mở rộng thêm cách tiếp cận trong việc khái quát, phân tích, lý giải những vấn đề khoa học có liên quan, đồng thời rút ra được những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện và phát triển trong luận án của mình. Thông qua đó, làm sáng tỏ thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng đến KNHT theo HCTC của sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG HỌC TẬP
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG AN NHÂN DÂN
2.1. Đặc điểm hoạt động học tập theo học chế tín chỉ của sinh viên ở các học viện, trường đại học Công an nhân dân
2.1.1. Đặc điểm sinh viên ở các học viện, trường đại học Công an nhân dân
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La tinh là “student”, nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, tìm kiếm, khai thác kiến thức. Trong tiếng Việt, theo Hoàng Phê (1994), Từ điển tiếng Việt [57], thuật ngữ sinh viên dùng để chỉ những người đang theo học ở bậc đại học [57, tr.44 - 69].
Thực tế, sinh viên (đào tạo hệ chính quy) là những người có độ tuổi từ 18, 19 đến 23 và 25, là những người đã trưởng thành về tâm sinh lý nói chung. Sự phát triển về cơ thể đã hoàn thành và ổn định. Về sự phát triển tâm lý xã hội, đây là thời kỳ chuyển tiếp, chuẩn bị cho việc sinh viên độc lập tham gia vào một cộng đồng xã hội và hoạt động nghề nghiệp ổn định. Vì vậy, họ tiếp tục chịu tác động giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và tự giáo dục, rèn luyện nhằm hoàn thiện nhân cách của bản thân đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp tương lai. Sinh viên là những người đang chuẩn bị tham gia vào quá trình lao động sản xuất với trình độ chuyên môn cao, hoăc có thể họ đang chuẩn bị tham gia vào giới tri thức. Như vậy, sinh viên là người trưởng thành cả về thể chất, nhận thức, tâm lý, họ có định hướng nghề nghiệp, việc họ học một ngành, một trường nào đó gắn với nhu cầu và lợi ích của mình. Đặc biệt, sinh viên có khả năng tự học, tự nghiên cứu. Qua những phân tích trên, có thể quan niệm:
Sinh viên là những người trưởng thành về thể chất, tâm lý, đang học tập tại các trường đại học, học viện hay các trường cao đẳng nhằm tích lũy kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp.
Sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND là những người đang học tập tại các học viện, trường đại học CAND, thuộc biên chế của ngành công an, đang tích cực học tập, rèn luyện theo chương trình đào tạo nghề công an nhằm tích lũy những kiến thức cơ bản và nghiệp vụ công an.
Sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND mang những đặc điểm của sinh viên nói chung, đồng thời có những đặc trưng của lực lượng CAND.
Sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của ngành công an. Sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND là những người đang học tập, bồi dưỡng, rèn luyện tại các học viện, trường đại học CAND. Bao gồm những học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, chiến sĩ nghĩa vụ, cán bộ công an các đơn vị, địa phương trong lực lượng công an đã trúng tuyển trong các kỳ thi tuyển sinh theo quy chế tuyển sinh của Bộ Giáo dục Đào tạo, quy định của Bộ Công an hoặc được các đơn vị công an cử tuyển về trường để đào tạo, bồi dưỡng trở thành những cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Để được xét tuyển vào các học viện, trường đại học CAND, người học phải có phẩm chất đạo đức tốt, lí lịch trong sạch, xác định rõ mục đích học tập để công tác và phục vụ lâu dài trong lực lượng công an. Trước khi tham gia xét tuyển vào các học viện, trường đại học CAND, người học được công an địa phương thẩm tra, xác minh lí lịch. Trong những năm học trung học phổ thông hoặc tương đương phải đạt học lực khá trở lên. Đồng thời, để được tham gia tuyển sinh vào các học viện, trường đại học CAND, người học phải đảm bảo các tiêu chuẩn về sức khỏe, chiều cao, cân nặng.
Thứ hai, sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND ngay từ khi nhận quyết định nhập học đã thuộc biên chế của lực lượng công an, mang trọng trách của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó đối với sự nghiệp Bảo vệ An ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Sinh viên ở các học viện, trường đại học CAND vừa phải nắm vững các kiến thức xã hội cơ bản vừa phải trang bị những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ đặc thù của ngành công an. Sinh viên được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần