các thành viên trong nhóm để phối hợp hành động, để giải quyết mâu thuẫn và điều chỉnh giao tiếp trong hoạt động chung [4].
Nhìn chung, các quan niệm hiện có về KNHT thường nhấn mạnh góc độ đúng đắn, thuần thục và linh hoạt của hành động phối hợp, gắn kết, hỗ trợ, trao đổi, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau. Tuy nhiên, KNHT cần được hiểu rộng hơn, bao gồm cả khía cạnh đúng đắn, thuần thục và linh hoạt của hành động phối hợp, gắn kết, hỗ trợ, trao đổi, chia sẻ của các thành viên trong nhóm; cả khía cạnh khoa học của sự hợp tác trong hành động của các thành viên. Vì vậy, sự hợp tác không chỉ thể hiện ở sự phối hợp, gắn kết, hỗ trợ, trao đổi, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau mà còn cần được thể hiện ở cả phương diện phối hợp, gắn kết, hỗ trợ, trao đổi với nhau xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả tổ chức thực hiện kế hoạch hợp tác giữa các thành viên trong nhóm.
Trên cơ sở kết hợp quan niệm KN là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm hành động/hoạt động với quan niệm về hợp tác theo các bình diện khác nhau có thể xác định: "KNHT là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm của mỗi cá nhân vào việc gắn kết, chia sẻ, hỗ trợ nhau lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả hợp tácgiữa các thành viên trong nhóm nhằm hoàn thành có kết quả công việc trong điều kiện cụ thể theo mục đích chung đặt ra".
Như vậy, bản chất KNHT là sự đúng đắn, thuần thục và linh hoạt của hành động gắn kết, hỗ trợ, trao đổi, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau giữa các thành viên và đúng đắn, thuần thục và linh hoạt trong việc gắn kết, hỗ trợ, trao đổi nhau lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả hợp tácnhằm đảm bảo hành động hợp tác vừa đúng đắn, thuần thục, linh hoạt vừa khoa học và hiệu quả giữa các thành viên.
KNHT thể hiện ở việc cá nhân nắm vững tri thức về hoạt động/hành động hợp tác như mục đích yêu cầu, cách thức tiến hành, điều kiện cần thiết để thực hiện các hoạt động/hành động lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả hợp tácvà vận dụng những tri thức này vào thực tiễn công việc một cách chính xác, linh hoạt và hiệu quả trên tinh thần tích cực, tự giác. Người có KNHT là người
luôn nỗ lực, cố gắng tìm kiếm các giải pháp để hoàn thành tốt các nhiệm vụ của cá nhân đồng thời là người tự nguyện, sự sẵn sàng gắn kết, phối hợp, cộng tác, hỗ trợ các thành viên khác trong nhóm hoàn thành có kết quả công việc chung của nhóm. Chính quá trình nỗ lực tìm kiếm cách thức để phối hợp, chia sẻ, hỗ trợ nhau cùng làm việc mà tri thức, kinh nghiệm, KNHT của mỗi cá nhân được nâng lên.
1.3.3. Khái niệm kỹ năng hợp tác trong học tập của sinh viên
* Hợp tác trong học tập của sinh viên
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Về Kỹ Năng Hợp Tác Trong Học Thực Hành Của Sinh Viên Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật.
- Các Nghiên Cứu Về Kỹ Năng Hợp Tác Trong Học Thực Hành
- Các Mức Độ Hình Thành Kỹ Năng
- Đặc Điểm Học Thực Hành Kỹ Thuật Của Sinh Viên Sư Phạm Kỹ Thuật
- Nội Dung Và Yêu Cầu Hợp Tác Trong Học Thực Hành
- Kỹ Năng Đánh Giá Hiệu Quả Hợp Tác Trong Học Thực Hành
Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.
Theo Johnson (1994), hợp tác trong học tập là hoạt động học tập mà trong đó học sinh làm việc cùng nhau để tối đa hóa khả năng học của mình với các thành viên khác nhằm đạt mục đích học tập đặt ra [78, tr149-150].
Theo Joseph S. Krajcik et al (2003), hợp tác trong học tập là sự cố gắng chung về trí tuệ của sinh viên, bạn bè, giảng viên và những thành viên khác trong cộng đồng. Hợp tác trong học tập chính là sự tương tác giữa các sinh viên với sinh viên, giữa sinh viên với giảng viên và giữa sinh viên với các thành viên khác trong cộng đồng có liên quan đến hoạt động dạy học của nhà trường [23, tr.232 - 233].
Slavin R.E (2011), dùng thuật ngữ “cooperative learning” với ý là “hình thức dạy học trong đó GV tổ chức lớp học thành các nhóm nhỏ để người học hợp tác với nhau, giúp đỡ, chia sẻ lẫn nhau qua đó tiếp thu tri thức nội dung bài học” [70, tr.344- 360].
Dựa theo các quan điểm về hợp tác trong học tập nêu trên, trong nghiên cứu này chúng tôi quan niệm: Hợp tác trong học tập của sinh viên là sự gắn kết, chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả hợp tácmột cách tích cực, tự giác giữa các thành viên trong nhóm nhằm hoàn thành mục đích học tập chung là lĩnh hội tri thức, hình thành KN, kỹ xảo nghề nghiệp tương ứng". Với quan niệm này có thể thấy, hợp tác trong học tập của sinh viên có các đặc điểm cơ bản sau:
- Như đã phân tích ở trên, điều kiện cần thiết, nhân tố quan trọng không thể thiếu của hợp tác là sự gắn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá nhân trong nhóm. Bởi lẽ, mỗi nhóm học tập hợp tác được hình thành từ các cá nhân có sự khác nhau về kiến thức, kỹ năng, vốn kinh nghiệm. Do đó, để hợp tác trong học tập đạt kết quả,
trước hết mỗi các cá nhân phải có sự nỗ lực, sự cố gắng để hoàn thành phần công việc của cá nhân được giao hướng tới hoàn thành công việc chung. Đồng thời phải có thái độ tích cực, tinh thần tự giác, sẵn sàng hỗ trợ nhau, gắn kết với nhau, chủ động trao đổi, thảo luận, bàn bạc với nhau để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ học tập đặt ra.
- Hợp tác trong học tập thể hiện tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với nhiệm vụ được giao và nhiệm vụ chung của nhóm. Do đó, mỗi cá nhân phải có ý thức, tự chịu trách nhiệm trước công việc của mình và công việc chung của nhóm. Tự giác hoàn thành công việc được giao, đồng thời kiểm tra, giám sát, đốc thúc các cá nhân khác trong nhóm hoàn thành công việc chung đúng tiến độ. Sẵn sàng chia sẻ kiến thức với cá nhân khác, hỗ trợ nhau khi gặp khó khăn, giúp nhau cùng tiến bộ. Mục đích hợp tác trong học tập chỉ đạt kết quả khi và chỉ khi mỗi cá nhân thực sự có trách nhiệm với nhóm.
- Hợp tác trong học tập thể hiện sự gắn kết, tích cực để lập kế hoạch hợp tác, tổ chức tổ chức thực hiện kế hoạch hợp tác và đánh giá hiệu quả thực hiện kế hoạch nhằm hoàn thành mục đích chung là tiếp thu, lĩnh hội tri thức, hình thành KN, kỹ xảo. Vì vậy, để thực hiện có kết quả hoạt động học tập hợp tác, các cá nhân trong nhóm cần phối hợp với nhau phân công công việc, vạch các phương án để hỗ trợ nhau; gắn kết với nhau thực hiện công việc theo sự phân công, thường xuyên hỗ trợ, khích lệ, động viên nhau hoàn thành công việc của cá nhân và nhóm đúng tiến độ; phối hợp trong kiểm tra, đôn đốc, giám sát nhau để hoàn thành mục đích chung.
Tóm lại, hợp tác trong học tập là phối hợp, gắn kết cùng nhau thực hiện các hành động học tập trên tinh thần tích cực, tự nguyện nhằm đạt mục đích chung. Trong quá trình đó, mỗi cá nhân không chỉ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của cá nhân mà còn giúp cho tất cả các thành viên đạt được điều đó. Bởi hợp tác trong học tập có sự ảnh hưởng tích cực lẫn nhau trong tập thể, bổ sung thiếu hụt cho nhau, giúp nhau cùng phát triển.
* Kỹ năng hợp tác trong học tập của sinh viên
Theo Nguyễn Thị Diễm My: “KNHT trong học tập của sinh viên là khả năng vận dụng những tri thức, kinh nghiệm của sinh viên về hợp tác (hợp tác là gì, làm
thế nào để hợp tác. hiệu quả…) để thực hiện có kết quả một nhiệm vụ, một hành động học tập của ít nhất hai người, nhằm lĩnh hội những tri thức, KN, kỹ xảo nghề nghiệp” [25, tr71].
Theo Tạ Nhật Ánh: KNHT trong học tập nhóm của sinh viên là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm của sinh viên để phối hợp hành động; giải quyết mâu thuẫn và điều chỉnh giao tiếp trong hoạt động học tập nhóm [4, tr43].
Trên cơ sở phân tích các khái niệm KN, hợp tác, KNHT cùng với việc tiếp cận, kế thừa các quan điểm nêu trên, trong nghiên cứu này chúng tôi quan niệm: Kỹ năng hợp tác trong học tập của sinh viên là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm của các cá nhân vào việc gắn kết, chia sẻ, hỗ trợ nhau lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và đánh giá hiệu quả hợp tácgiữa các thành viên trong nhóm học tập nhằm hoàn thành có kết quả học tập chung là lĩnh hội tri thức, hình thành KN, kỹ xảo nghề nghiệp trong điều kiện cụ thể.
Theo quan niệm này, có thể hiểu KNHT trong học tập vừa thể hiện mặt kỹ thuật của hành động hợp tác trong học tập nhóm, vừa thể hiện mặt hợp tác nhóm theo khoa học. Theo góc độ kỹ thuật của hoạt động/hành động, muốn thực hiện hành động hợp tác trong học tập, trước hết SV phải có tri thức về KNHT trong học tập, hiểu biết về các yêu cầu về phối hợp, hỗ trợ nhau khi học tập hợp tác. Những tri thức này là điều kiện cần để hình thành KNHT trong học tập, thiếu những tri thức này không thể hình thành KNHT cho SV. Tuy nhiên, nếu SV chỉ có tri thức về hành động hợp tác trong học tập mà không có tri thức về việc lập kế hoạch và vận dụng được tri thức này vào giải quyết việc hợp tác giữa mình với người khác và giữa các thành viên khác trong nhóm thì không thể gọi là có KNHT trong nhóm học tập. Người có KNHT trong học tập là người biết phối hợp, hỗ trợ nhau hoàn thành các nhiệm vụ học tập của cá nhân và của nhóm. Khi biết cách vận dụng và vận dụng có hiệu quả tri thức về KNHT trong học tập trong điều kiện này, thì ở điều kiện khác cũng sẽ cho kết quả tương tự. Mặt khác, để hoạt động/hành động hợp tác có hiệu quả thì phải tính đến các điều kiện của hành động. Bởi hành động phù hợp với điều kiện cho phép thì đạt kết quả và ngược lại. Tóm lại, để có KNHT trong học tập phải thỏa mãn những điều kiện sau:
- Sinh viên phải có tri thức về hợp tác trong học tập: mục đích, yêu cầu, cách thức, điều kiện, phương tiện thực hiện hợp tác trong học tập một cách khoa học và hiệu quả
- Sinh viên phải biết vận dụng có kết quả những tri thức đó trong việc phối hợp, hỗ trợ nhau cùng giải quyết những nhiệm vụ học tập của cá nhân hướng tới hoàn thành nhiệm vụ học tập chung của nhóm; vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có vào việc cùng với các thành viên khác trong nhóm thiết lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch hợp tác giữa các thành viên trong nhóm một cách đúng đắn và hiệu quả.
- Sinh viên phải biết vận dụng có kết quả tri thức, kinh nghiệm trong những điều kiện học tập tương tự.
1.4. Kỹ năng hợp tác trong học thực hành của sinh viên sư phạm kỹ thuật
1.4.1. Hoạt động học thực hành của sinh viên sư phạm kỹ thuật
1.4.1.1. Sinh viên đại học sư phạm kỹ thuật
Sinh viên là những người đang tích cực học tập, tích lũy kiến thức, hình thành KN kỹ xảo nghề nghiệp để chuẩn bị thực hiện vai trò xã hội của một công dân và khẳng định chuyên môn của mình ở các lĩnh vực khác nhau.
Sinh viên đại học SPKT về cơ bản giống sinh viên các ngành khác. Sự khác biệt ở chỗ, sinh viên đại học SPKT được đào tạo chuyên biệt để trở thành kỹ sư và người GV dạy nghề - người giữ vai trò tổ chức, điều khiển quá trình học tập của trò, giúp chúng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, hình thành KN kỹ xảo nghề nghiệp tương ứng và hình thành, phát triển nhân cách đáp ứng yêu cầu nhân lực của xã hội. Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng: Sinh viên đại học SPKT là những người đang học các chuyên ngành sư phạm kỹ thuật (công nghệ chế tạo máy; công nghệ ô tô; công nghệ kỹ thuật điện, điện tử; công nghệ kỹ thuật cơ khí; công nghệ kỹ thuật điều khiển và tự động hóa; công nghệ thông tin; công nghệ kỹ thuật điện tử, truyền thông…) tại các trường đại học SPKT về kỹ thuật chuyên môn nghề và nghiệp vụ sư phạm để trở thành người kỹ sư và người giáo viên kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của xã hội.
* Đặc điểm tâm lý của sinh viên đại học sư phạm kỹ thuật
Cũng như SV các ngành khác, sinh viên SPKT cũng trong độ tuổi từ 18 đến 25, sự phát triển thể chất của sinh viên SPKT đã hoàn thiện và các nét tính cách đã
tương đối ổn định. Đây được xem là giai đoạn phát triển mạnh của nhân cách. Biểu hiện ở các đặc điểm đặc trưng sau:
Sự phát triển về mặt nhận thức: ở lứa tuổi này cấu tạo, chức năng của hệ thần kinh và các giác quan phát triển tương đối hoàn thiện, năng lực tri giác, trí nhớ của sinh viên SPKT phát triển ở mức độ cao, có tính linh hoạt và mềm dẻo trong tư duy, biểu tượng kỹ thuật phát triển với chất lượng mới. Sinh viên SPKT nhạy cảm và sâu sắc trong nhận thức, tư duy kỹ thuật có tính chất lý thuyết - thực hành và mang tính thiết thực hơn. Vì vậy, sinh viên SPKT có khả năng học tập, nghiên cứu độc lập, khả năng tự đặt vấn đề, tự tìm cách giải quyết vấn đề.
Sự phát triển tự ý thức: sinh viên SPKT có khả năng tự quan sát, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với các hoạt động và các mối quan hệ xã hội. Nhờ đó, trong quá trình học tập nói chung, học thực hành kỹ thuật nói riêng SV biết tự điều hành vi, thái độ học tập của mình cho phù hợp với đặc điểm, nội dung, tính chất của nội dung bài học để tiếp thu lĩnh hội tri thức, hình thành KN, kỹ xảo, rèn luyện phát triển nhân cách nghề nghiệp.
Sự phát triển định hướng giá trị và động cơ học tập: đối với sinh viên SPKT khi lựa chọn ngành nghề theo học ở đại học nghĩa là họ đã định hướng giá trị cho bản thân ở trình độ học vấn cao, với các ngành nghề dễ kiếm việc làm, có thu nhập cao. Do đó, họ tích cực học tập tiếp thu, lĩnh hội một cách hệ thống tri thức khoa học cơ bản và chuyên sâu, những nội dung có tính nghề nghiệp để trở thành chuyên gia của một nghề.
Tóm lại, ở lứa tuổi SV sự phát triển tâm lý đã đạt đến mức ổn định. Bên cạnh đó, với tính tích cực, ham hiểu biết, thích khám phá những cái mới lạ nên đây là yếu tố rất thuận lợi để SV học tập, rèn luyện, hình thành phẩm chất nhân cách nghề nghiệp trong tương lai.
1.4.1.2. Khái niệm hoạt động học thực hành kỹ thuật của sinh viên sư phạm kỹ thuật
Hoạt động học của SV SPKT vừa có điểm chung vừa có điểm đặc thù so với SV sư phạm các ngành khác như SV sư phạm Toán, SV sư phạm văn. Điểm chung ở chỗ đều là SV sư phạm, với nghề nghiệp sau khi ra trường là giảng dạy học sinh chuyên môn được đào tạo. Vì vậy, SV mọi ngành sư phạm đều phải có nghiệp vụ sư
phạm liên quan tới giáo dục bộ môn. Điểm khác, có tính đặc thù giữa học tập của SV SPKT với SV sư phạm các ngành khác là ở nội dung các môn học chuyên môn. Tính chất các môn học chuyên môn của ngành SPKT tạo ra tính đặc thù của học thực hành kỹ thuật.
Trong học tập của học sinh cũng như học nghề của SV thường có học lí thuyết và thực hành, theo nghĩa là vận dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn, một mặt giúp cho kiến thức lí thuyết được sâu sắc hơn, mặt khác qua đó phát triển năng lực thực tiễn. Trong từ điển Giáo dục học, nhóm tác giả Vũ Văn Tảo, Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh cho rằng: thực hành là hình thức luyện tập để trau dồi KN, kỹ xảo hoạt động, để hiểu rõ và nắm vững kiến thức lý thuyết. Đây là khâu quan trọng đảm bảo nguyên lý giáo dục: “học đi đôi với hành”. Thực hành cần được tổ chức thực hiện thật tốt, có kế hoạch, có hệ thống và gắn liền với các vấn đề lý thuyết đang học. Thực hành có rất nhiều hình thức tùy theo đặc thù của mỗi môn học. Song tất cả các dạng luyện tập đều góp phần làm phong phú hình thức và nâng cao năng lực tư duy, hình thành năng lực hoạt động thực tiễn [29, tr.376].
Đối với SV SPKT, nội dung chuyên môn của SV SPKT vừa có những học phần, môn học chung với sinh viên sư phạm các ngành khác (các môn, học phần chung). Với những môn học như vậy, việc thực hành chỉ là một khâu của cả quá trình học tập. Tuy nhiên, ngoài những môn chung như vậy, hầu hết các học phần, môn học khác trong chương trình học chuyên môn của SV SPKT là các môn học, học phần kỹ thuật, công nghệ, trong đó nội dung kỹ thuật, công nghệ là chính. Điều này khác với các môn học lí luận. Vì vậy, thực hành trong các môn học kỹ thuật, công nghệ không phải là thực hành mang ý nghĩa vận dụng lí luận như trong các học phần lí luận mà là nội dung chính, có tính bắt buộc, chiếm tỉ trọng lớn trong nội dung học phần. Đó chính là hoạt động học giống các môn học khác. Do vậy, không phải là thực hành mà là học thực hành.
Theo tác giả Nguyễn Văn Khôi [20, tr30] thực hành trong học các môn kỹ thuật là “hoạt động học của người học nhằm vận dụng những hiểu biết kỹ thuật để hình thành và rèn luyện KN kỹ xảo cần thiết".
Chúng tôi quan niệm: "Học thực hành kỹ thuật là quá trình vận dụng kiến thức lý thuyết chuyên môn kỹ thuật đã tích lũy được vào hoạt động lao động kỹ thuật có kế hoạch, có hệ thống nhằm tạo ra sản phẩm đặc thù của nghề, qua đó củng cố, kiểm chứng và mở rộng kiến thức chuyên môn, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp".
Dựa trên khái niệm học thực hành trong học kỹ thuật, chúng tôi hiểu: Hoạt động học thực hành kỹ thuật của sinh viên đại học sư phạm kỹ thuật là hoạt động được điều khiển bởi mục đích tự giác, vận dụng kiến thức lý thuyết chuyên môn kỹ thuật vào hoạt động lao động kỹ thuật có kế hoạch, có hệ thống nhằm tạo ra sản phẩm đặc thù của nghề, qua đó củng cố, kiểm chứng và mở rộng kiến thức chuyên môn đồng thời hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp theo mục tiêu xác định.
Như vậy, thực hành trong học tập của SV SPKT bao gồm cả thực hành môn học theo nghĩa phổ biến đối với việc học các môn học trong trường phổ thông và dạy nghề và học thực hành theo nghĩa hoạt động học đối với các môn học kỹ thuật, công nghệ.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động học thực hành các môn thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ chuyên ngành của SV SPKT.
Hoạt động học thực hành kỹ thuật có 2 dạng cụ thể: dạng thứ nhất là hoạt động thực hành trí tuệ đòi hỏi con người huy động mức cao nhất trí tuệ, kinh nghiệm, vốn hiểu biết kỹ thuật vào quá trình luyện tập, ít sử dụng cơ bắp; dạng thứ 2 là hoạt động thực hành thể chất chủ yếu là triển khai các thao tác kỹ thuật. Hai dạng hoạt động này thực hiện các chức năng khác nhau nhưng có mối liên hệ tương hỗ nhau.
- Các loại bài học thực hành kỹ thuật, nếu dựa vào nội dung có bài thực hành thiết kế chế tạo; thực hành kiểm tra, giám định máy móc thiết bị; thực hành lắp ráp và vận hành; thực hành bảo dưỡng và sửa chữa...Tùy thuộc vào mục đích và điều kiện dạy học cụ thể, mỗi loại bài có nội dung luyện tập khác nhau: luyện tập theo động tác, theo bước công nghệ, theo nguyên công, theo sản phẩm (cả quá trình công nghệ). Dựa trên mức độ tự lực của người học, có thể chia các bài thực hành kỹ thuật thành hai dạng chính là bài thực hành rèn luyện KN cơ bản và bài thực hành nhiệm