- Giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong kinh tế du lịch tại địa phương
+ Mối quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp trong KTDL: Đây vừa là mối quan hệ giữa cơ quan quản lý kinh tế với các đơn vị kinh doanh, vừa là“mối quan hệ giữa cơ quan làm công tác quản lý hoạt động văn hóa, xã hội và các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch có tính chất văn hóa. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước phải tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tạo ra sân chơi cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp là các đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước cần có chính sách bảo tồn, tôn tạo, phát huy di sản, bản sắc văn hóa dân tộc v.v.. Điều này đặc biệt có ý nghĩa nâng cao chất lượng sản phẩm DL. Ngược lại, các doanh nghiệp kinh doanh - đơn vị cung ứng sản phẩm du lịch cần thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thực hiện các quy định của địa phương nơi có điểm DL, xây dựng thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp để uy tín và chất lượng ngày càng được khẳng định trên thị trường.
+ Mối quan hệ giữa nhà nước với cộng đồng dân cư trong KTDL: Cơ quan quản lý nhà nước cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển các giá trị di sản, bản sắc văn hóa; tuyên truyền về lợi ích của việc phát triển du lịch, xây dựng cơ chế chính sách chia sẻ lợi ích để cùng phát triển từ hoạt động du lịch đối với các bên tham gia hoạt động du lịch, nhất là đối với người dân địa phương có điểm đến DL. Đồng thời,“cơ quan quản lý nhà nước cũng cần có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, giải quyết các hành vi tiêu cực của người dân tại điểm du lịch gây phiền hà cho khách, làm ảnh hưởng đến môi trường du lịch, phá hủy tài nguyên du lịch tự nhiên. Người dân ở địa phương có trách nhiệm bảo vệ giá trị của bản sắc văn hóa, thực hiện bảo vệ xã hội, môi trường, phối hợp cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch.
Muốn phát triển du lịch cần phát triển nguồn nhân lực làm du lịch. Các bộ ngành DL, cần được nâng cao trình độ, kỹ năng, nhất là năng lực sáng tạo trong tham mưu xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, được tiếp cận tri thức, công nghệ mới trong xúc tiến, quảng bá, truyền thông. Đối với các hộ dân làm du lịch cộng đồng, cần bổ sung vốn kiến thức về văn hóa bản địa, tăng cường đào tạo cung cách, kỹ năng phục vụ du lịch, vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp, nhưng không bị thương
mại hóa làm mất đi tính thuần khiết của văn hóa vùng cao. Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác quảng bá, xúc tiến du lịch bài bản hơn.
Khi đề cập tới quan hệ sản xuất của KTDL, vấn đề doanh thu, thu nhập được xem là biểu hiện của sự hoàn thiện quan hệ phân phối, quan hệ lợi ích trong KTDL.
Doanh thu của du lịch là được tính bằng toàn bộ tất cả các khoản thu do khách du lịch chi trả. Do vậy doanh thu của du lịch không chỉ là doanh thu trực tiếp từ các cơ sở lưu trú, nhà hàng mà còn gồm các việc chi tiêu mua sắm hàng hóa, dịch vụ tham quan, y tế, thông tin liên lạc... Trên cơ sở đó ngoài chỉ tiêu doanh thu thì các chỉ tiêu về lao động, nộp ngân sách... đều được tính toán phân bổ tương ứng.
2.2.2. Các tiêu chí đánh giá về kinh tế du lịch ở các tỉnh thuộc vùng địa lý của quốc gia
Có thể bạn quan tâm!
- Những Kết Quả Các Công Trình Nghiên Cứu Đã Công Bố Và Vấn Đề Đặt Ra Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu Về Kinh Tế Du Lịch
- Cầu Của Du Khách Có Tính Nhạy Cảm Với Sự Đa Dạng Dịch Vụ
- Khía Cạnh Tác Động Tiêu Cực Của Kinh Tế Du Lịch Đến Kinh Tế - Xã Hội Của Cấp Tỉnh Thuộc Vùng Địa Lý
- Những Nhân Tố Chủ Quan Ảnh Hưởng Tới Kinh Tế Du Lịch
- Kinh Nghiệm Của Vương Quốc Thái Lan
- Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Cho Các Tỉnh Nam Trung Bộ, Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
Xem toàn bộ 183 trang tài liệu này.
Dựa trên cơ sở lý luận về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Kinh tế chính trị Mác - Lênin kết hợp tri thức lý luận của các lý thuyết về kinh tế du lịch hiện đại, lý thuyết về chất lượng nhân lực, lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, luận án xây dựng các nhóm tiêu chí đánh giá về kinh tế du lịch cụ thể như sau:
2.2.2.1. Nhóm tiêu chí đánh giá về lực lượng sản xuất trong kinh tế du lịch của các tỉnh thuộc vùng địa lý của quốc gia
Lực lượng sản xuất là thành tố khái quát, bên trong của KTDL. Do đó, đánh giá về lực lượng sản xuất của KTDL thực chất là đánh giá về mức độ phát triển của các yếu tố cấu thành LLSX của kinh tế du lịch của một địa phương nhất định. Mà mức độ phát triển này lại được biểu hiện ra ở các khía cạnh trên bề mặt nền kinh tế như: Chất lượng của đội ngũ nhân lực; sự đa dạng, mức độ hiện đại, đồng bộ, hoàn thiện về các thành tố tư liệu sản xuất; mức độ đóng góp vào GDP của KTDL; quy mô du khách; sự đa dạng và chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch. Do đó, tiêu chí đánh giá về cấu thành LLSX của KTDL cần được quan sát thông qua các biểu hiện bên ngoài với tư cách là biểu hiện của LLSX nêu trên.
* Chỉ tiêu về chất lượng nhân lực du lịch ở địa phương cấp tỉnh
Chất lượng nhân lực thể hiện ở nhiều chỉ tiêu như: Trình độ học vấn, năng lực ngoại ngữ, sự thành thạo và chuyên nghiệp về kỹ năng, sự tinh tế, sự nhiệt tình, sự chu đáo, trung thành, trung thực… Nếu một tỉnh hay một doanh nghiệp xây dựng được nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao thì đây là nhân tố có vai trò quan trọng
để tạo ra nhiều sản phẩm DL có chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của khu, điểm đến du lịch nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng.
* Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của các thành tố cấu thành tư liệu sản xuất của KTDL ở địa phương cấp tỉnh
- Chỉ tiêu về sự đồng bộ, hiện đại của cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng:
Sự phát triển LLSX của KTDL, cùng với chất lượng nhân lực, sự đồng bộ, hiện đại, phong phú, đa dạng, tiện nghi của cơ sở vật chất: giao thông, nhà hàng, khách sạn, cơ sở lưu trú, khu vui chơi, thông tin, tài chính… được coi là các chỉ tiêu thể hiện sự phát triển tư liệu sản xuất trong ngành KTDL của một địa phương. Do đó, những chỉ tiêu này được xem là căn cứ để đánh giá KTDL xét về cấu thành LLSX.
Việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật đồng bộ, thuận tiện sẽ hỗ trợ tích cực đến sự phát triển một cách bền vững ngành KTDL, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm DL cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng KTDL nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách. Nói khác tính hiện đại, đồng bộ của cơ sở vật chất - kỹ thuật sẽ góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng và chất lượng cho các dịch vụ KTDL. Một địa phương muốn phát triển KTDL thì trước hết cần có hệ thống kết cấu hạ tầng và cở sở vật chất - kỹ thuật được đầu tư đồng bộ và chuyên nghiệp. Có thể nói trình độ phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng và cở sở vật chất - kỹ thuật KTDL vừa là điều kiện, nhưng cũng vừa thể hiện trình độ phát triển KTDL của mỗi địa phương.
- Chỉ tiêu về sự đa dạng của tài nguyên du lịch:
Với tư cách là đối tượng lao động, sự đa dạng của các loại tài nguyên du lịch (tài nguyên nhân văn, tài nguyên sinh thái, tài nguyên vật thể, tài nguyên phi vật thể) cũng là các chỉ tiêu phán ảnh tiềm năng cho sự phát triển LLSX của KTDL. Cho nên, khi xem xét sự phát triển LLSX của KTDL cần phải tính tới các chỉ tiêu về đối tượng lao động đặc thù của KTDL nêu trên.
Vì vậy, với các địa phương, cần sử dụng và khai thác hợp lý có hiệu quả các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường, đảm bảo cho việc đáp ứng được nhu cầu hiện tại và tương lai, để thực hiện được mục tiêu này, ngành DL phải có những hoạt động cụ thể để đóng góp vào công cuộc tôn tạo, bảo vệ tài nguyên và
môi trương. Chỉ tiêu về tài nguyên - môi trường được biểu hiện như: số lượng các điểm DL, khu DL được đầu tư tôn tạo, bảo tồn và được quy hoạch; mức độ đóng góp cho hoạt động phát triển tài nguyên, bảo vệ môi trường, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
* Các chỉ tiêu về sự đóng góp vào GDP, quy mô du khách, sự đa dạng của các sản phẩm, dịch vụ du lịch tại địa phương
Biểu hiện sự phát triển của kinh tế du lịch xét về khía cạnh lực lượng sản xuất còn thể hiện ở kết quả của sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Xét về khía cạnh kinh tế, kết quả đó được thể hiện ở một số chỉ số như: Mức độ đóng góp vào GDP của ngành KTDL; lượng du khách; sự đa dạng của các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Với ý nghĩa như vậy, khi đánh giá về sự phát triển LLSX của KTDL không chỉ là đánh giá bản thân các yếu tố cấu thành mà quan trọng hơn còn phải đánh giá kết quả của sự kết hợp các thành tố của LLSX biểu hiện ra trên bề mặt nền kinh tế.
- Chỉ tiêu chí đánh giá về đóng góp về tăng trưởng (GDP du lịch):
GDP là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng trong hệ thống tài khoản địa phương/quốc gia được sử dụng với mục đích nhằm đánh giá kết quả tổng hợp hoạt động kinh tế, nghĩa là đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế và khối lượng của một địa phương/quốc gia và từng ngành kinh tế. Sự gia tăng liên tục của chỉ tiêu GDP không chỉ đảm bảo cho sự phát triển về mặt kinh tế mà còn cho thấy vị trí của kinh tế du lịch trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Chỉ tiêu về lượng khách du lịch, sự đa dạng của các sản phẩm, dịch vụ du lịch của địa phương:
Kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất trong KTDL biểu hiện trên nhiều mặt, trong đó có thể thông qua biểu hiện của các chỉ tiêu về du khách, về sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ du lịch. Lượng du khách lớn hay nhỏ thường phụ thuộc vào sự phát triển đa dạng của các sản phẩm dịch vụ du lịch mà địa phương có thể cung ứng cho du khách. Do đó, khi đánh giá về sự phát triển của lực lượng sản xuất của KTDL cần coi các chỉ tiêu về du khách, về sự đa dạng của các sản phẩm du lịch như là biểu hiện thực tế có thể đo lường được của trình độ lực lượng sản xuất trong kinh tế du lịch.
+ Khách du lịch:
Khách du lịch là những người tiêu dùng hàng hóa dịch vụ DL: Đối với bất cứ một ngành sản xuất hàng hóa nào thì việc sản xuất hàng hóa là để bán cho người tiêu dùng. Trong ngành DL cũng vậy việc bán được nhiều sản phẩm, dịch vụ cho du khách làm cho các doanh nghiệp DL ngày càng phát triển, còn nếu ít khách du lịch hoặc không có khách DL thì hoạt động của doanh nghiệp bị đình trệ thất thu. Như vậy, có nghĩa là ngành DL muốn hoạt động và phát triển thì đối tượng du khách là nhân tố quyết định. Nếu không có du khách thì các nhà kinh doanh DL không thể kinh doanh được, không có du khách thì hoạt động của các nhà kinh doanh DL trở nên vô nghĩa. Xét trên góc độ sản xuất vật chất thì nhà kinh doanh DL là nhà sản xuất hàng hóa, còn khách DL là người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Xét trên góc độ thị trường thì du khách chính là cầu thị trường, còn các nhà kinh doanh DL là cung thị trường. Muốn kinh doanh có hiệu quả các nhà kinh doanh phải chú trọng hơn nữa đến du khách, phải nghiên cứu một cách đầy đủ chính xác về đặc điểm và nhu cầu của du khách, xác định được vị trí của du khách trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô, số lượng khách du lịch tác động trực tiếp đến doanh thu thì hoạt đông DL: Bởi, nếu khi lượng khách du lịch với quy mô lớn và số lượng nhiều thì doanh thu đạt được cao, ngược lại nếu ít khách du lịch đến thì doanh thu ít lại, thậm chí là thua lỗ.
Khách du lịch mang dấu ấn của trình độ phát triển của nền kinh tế, của chất lượng dịch vụ DL mà họ được thụ hưởng: Mỗi dân tộc có những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái riêng, và con người khi đi DL chính là đi tìm những cảm xúc lạ mà quê mình không có. Cảm xúc khác lạ đấy chính là những tập tục là về cư trú, kiến trúc cổ, thói quen ăn uống sinh hoạt, trang phục dân tộc v.v.. Đây chính là dấu ấn riêng mà những địa điểm DL đem lại cho những khách du lịch tham quan.
+ Các sảm phẩm, dịch vụ du lịch:
Sản phẩm DL là những yếu tố quan trọng trong hoạt động KTDL, sản phẩm DL tạo nên sự khác biệt trong phát triển kinh tế du lịch, tạo nên thương hiệu và hình ảnh của mỗi điểm đến, mỗi địa phương, vùng, miền và mỗi quốc gia. Sản phẩm DL
thể hiện trong các chương trình DL này chính là việc khai thác các tiềm năng, nguồn lực sẵn có trên một địa bàn hoặc được tạo ra khi biết kết hợp những tiềm năng, nguồn lực đó theo những cách thức riêng của từng người hay một doanh nghiệp nào đó. Và có thể việc khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các địa phương vào hoạt động DL như: các loại hình nghệ thuật, dân ca, dân vũ, trình diễn, diễn xướng dân gian, văn hóa ẩm thực hay các hình thức hoạt động thể thao, các hoạt động lễ hội truyền thống, v.v.. Các hoạt động này giúp cho du khách trực tiếp cảm nhận và hưởng thụ, trải nghiệm văn hóa của địa phương.
2.2.2.2. Nhóm tiêu chí đánh giá về quan hệ sản xuất của kinh tế du lịch ở các tỉnh thuộc vùng địa lý của quốc gia
Biểu hiện của thành tố quan hệ sản xuất của kinh tế du lịch ở cấp địa phương của vùng địa lý được xem xét trên ba mặt: Quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trên thực tế, các mặt đó lại biểu hiện ra ở sự tham gia của các chủ thể thuộc thành phần kinh tế vào ngành KTDL; Vai trò quản lý Nhà nước đối với KTDL; Quan hệ phân phối lợi ích, liên kết kinh tế trong ngành KTDL. Vì vậy, khi đánh giá về thành tố quan hệ sản xuất của KTDL cần được xem xét dựa trên các nhóm chỉ tiêu nêu trên.
* Chỉ tiêu về sự đa dạng của các chủ thể kinh doanh, đa dạng thành phần kinh tế trong KTDL ở địa phương
Sự phát triển của KTDL ở phạm vi quốc gia cũng như địa phương trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập thể hiện ở sự tham gia đa dạng của các chủ thể sản xuất kinh doanh, sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Vì vậy, càng có sự đa dạng của các chủ thể sản xuất kinh doanh, càng có nhiều thành phần kinh tế tham gia thì càng thể hiện sự hoàn thiện của quan hệ sở hữu. Vì vậy, khi đánh giá về mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất trong KTDL ở địa phương cần căn cứ trên chỉ tiêu về sự đa dạng của các chủ thể tham gia, sự phong phú của các thành phần kinh tế trong ngành KTDL.
* Chỉ tiêu về vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch
Vai trò quản lý nhà nước về kinh tế du lịch được đánh giá thông qua thể chế, chính sách liên quan đến lĩnh vực du lịch có thiết thực và hiệu quả như thế nào, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay thì những chính
sách như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển du lịch rất quan trọng; được đánh giá qua công tác kiểm tra việc kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp và việc cấp phép, đình chỉ, thu hồi giấy phép kinh doanh du lịch.
Vai trò quản lý của nhà nước đối với KTDL còn thể hiện ở khía cạnh đầu tư hay tư cách là bà đỡ của Nhà nước đối với KTDL. Chỉ tiêu chí này rất có ý nghĩa trong đánh giá về mặt quan hệ quản lý của kinh tế du lịch. Những hoạt động phát triển kinh tế du lịch mà Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí cho các hoạt động của ngành du lịch là: điều tra, đánh giá, bảo vệ, tôn tạo, phát triển giá trị tài nguyên du lịch; lập quy hoạch về du lịch; xúc tiến quảng bá du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia, địa phương; xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch. Như vậy là đảm bảo được hoạt động trong phát triển KTDL.
* Các chỉ tiêu về quan hệ phân phối, quan hệ lợi ích, mức độ liên kết giữa các địa phương trong phát triển kinh tế du lịch
Việc đánh giá khía cạnh quan hệ phân phối, quan hệ lợi ích cần được xem xét thông qua các chỉ tiêu có thể quan sát được như: thu nhập, doanh thu, việc làm, mức độ đóng góp vào ngân sách của địa phương, sự liên kết giữa các địa phương trong phát triển KTDL.
- Chỉ tiêu về giải quyết việc làm:
Chỉ tiêu về giải quyết việc làm thể hiện ở quy mô, chất lượng việc làm mà ngành KTDL đem lại cho người lao động. Quy mô việc làm càng lớn, chất lượng việc làm càng cao chứng tỏ quan hệ về phân phối càng được chú ý. Với bản chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, kinh tế du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động. Chỉ tiêu về việc làm được thống kê hằng năm.
- Các chỉ tiêu về doanh thu, thu nhập, đóng góp với ngân sách:
Quan hệ phân phối thể hiện trong ngành KTDL thể hiện ở việc phân phối giá trị thông qua phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu thể hiện thông qua thu nhập, doanh thu của doanh nghiệp. Phân phối lại đối với xã hội thể hiện thông qua chỉ tiêu đóng góp cho ngân sách. Trên cơ sở đó ngân sách lại được phân bổ cho các hoạt động kinh tế xã hội khác. Do đó, khi đánh giá về phân phối, các chỉ tiêu về thu nhập của người lao động, doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp, mức
huy động vào ngân sách rất là các căn cứ để đánh giá về KTDL xét ở cấu thành quan hệ phân phối trong quan hệ sản xuất.
Bên cạnh đó, do KTDL là ngành kinh tế có đặc trưng liên ngành, liên vùng cao cho nên việc thực hiện các liên kết kinh tế, giải quyết các quan hệ lợi ích giữa nhà nuớc, người dân, doanh nghiệp cũng được coi như chỉ tiêu để đánh giá cấu thành quan hệ sản xuất của KTDL ở cấp độ quốc gia cũng như địa phương.
- Chỉ tiêu chí đánh về liên kết, hợp tác trong phát triển KTDL, các quan hệ lợi ích:
+ Việc liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch ở các tỉnh Nam Trung Bộ được thực hiện trong hoạt động như: “đào tạo nguồn nhân lực DL, xây dựng quy hoạch DL, xúc tiến, quảng bá DL, xây dựng sản phẩm DL…”
+ Liên kết và hợp tác“phát triển DL trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng, mang lại hiệu quả và cùng có lợi giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành trên cùng một địa phương, giữa các địa phương trong vùng, giữa vùng với các vùng lãnh thổ khác trong cả nước cũng như trong khu vực và quốc tế.”
+ Liên kết và hợp tác“phát triển DL phải bổ sung khắc phục những hạn chế, phát huy những thế mạnh về DL của mỗi địa phương trong vùng, mỗi vùng cũng như mỗi quốc gia.”
+ Về các quan hệ lợi ích: Giải quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào thị trường du lịch không phải việc đơn giản. Cần đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể: các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thì tạo được lợi nhuận; khách hàng thì hài lòng với dịch vụ được cung cấp. Như vậy, có thể coi là thành công.
2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế du lịch ở cấp tỉnh thuộc vùng địa lý
Kinh tế du lịch chịu tác động ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó, chủ yếu là điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; chất lượng quy hoạch, kế hoạch phát triển; cơ chế, chính sách vận hành hoạt động du lịch; tiềm năng về các nguồn lực cho phát triển kinh tế du lịch… Dưới đây là các nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng đến KTDL.