nâng cao chất lượng phục vụ. Quy mô các tổ chức kinh doanh du lịch càng lớn sẽ càng có điều kiện để đầu tư chiều sâu, ứng dụng KH - CN, mở rộng liên doanh liên kết, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển đồng bộ các loại hình du lịch để hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.
Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch sẽ giúp cho các DNDL tăng khả năng cạnh tranh, tạo niềm tin, danh tiếng đối với du khách. Khi chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch được nâng cao, dưới con mắt khách hàng và thị trường thì những sản phẩm dịch vụ vượt mức trông đợi của khách hàng sẽ có giá trị cao hơn so với những sản phẩm dịch vụ cùng loại của đối thủ cạnh tranh và như vậy thì lượng khách hàng sẽ tăng và điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế và lợi nhuận của DNDL cũng tăng theo.
2.2.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến kinh tế du lịch
Hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phát triển kinh tế du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế
HNKTQT là quá trình các quốc gia chủ động gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hóa kinh tế và giảm thiểu sự khác biệt để trở thành một bộ phận hợp thành của chỉnh thể kinh tế toàn cầu.
HNKTQT tất yếu thúc đẩy hội nhập KTDL giữa các nước. Sở dĩ như vậy, bởi vì hiện nay sự phát triển của phân công lao động xã hội được mở rộng trên phạm vi quốc tế. Phân công lao động quốc tế có bước phát triển mới, ngày càng sâu sắc làm cho các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, đưa đến sự hình thành nền kinh tế toàn cầu như một chỉnh thể thống nhất. KTDL là ngành dịch vụ cũng không nằm ngoài xu thế trên.
Mặt khác, sự tiến bộ của KH - CN làm cho phân công lao động quốc tế có sự biến đổi quan trọng. Ngày nay, phân công lao động quốc tế chủ yếu là phân công theo trình độ, chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác quốc tế sản xuất ngày càng mở rộng. Nhiều sản phẩm là kết quả hợp tác nhiều cơ sở sản xuất của nhiều nước khác nhau. KTDL là ngành sản xuất ra sản
phẩm du lịch để cung ứng ra thị trường. Để có được sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường thì đòi hỏi phải có sự phân công lao động, chuyên môn hóa rất cao. Sản phẩm ấy phải là sự kết hợp bởi một chuỗi các dịch vụ khác nhau. Đồng thời, sự gia tăng mạnh mẽ thương mại quốc tế, tốc độ tăng trưởng mậu dịch quốc tế vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới. Xu hướng tất yếu của cuộc cách mạng KH - CN sẽ đòi hỏi các quốc gia phải liên kết trong KTDL.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế - 6
- Mối Quan Hệ Giữa Kinh Tế Du Lịch Với Sự Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kinh Tế Du Lịch Trong Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Tác Động Của Kinh Tế - Xã Hội Đối Với Sự Phát Triển Của Kinh Tế Du Lịch .
- Kinh Nghiệm Về Liên Kết, Hợp Tác Trong Phát Triển Ktdl
- Những Lợi Thế Và Hạn Chế Về Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế, Xã Hội Trong Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ
- Thống Kê Một Số Thị Trường Khách Quốc Tế Đến Các Tỉnh Bắc Trung Bộ (2005 - 2011)
Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.
Vì vậy, KTTT và HNKTQT càng mở rộng, càng thúc đẩy các quan hệ quốc tế của KTDL, hội nhập KTDL trở thành xu thế tất yếu trong quá trình phát triển KT - XH của một quốc gia.
Chính do tác động của xu thế này, trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương chủ động HNKTQT, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn trong các quan hệ kinh tế toàn cầu và song phương. Ngày 11/01/2007, nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Đây là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình HNKTQT của Việt Nam. Hội nhập về KTDL là một lĩnh vực của HNKTQT.
Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến kinh tế du lịch
HNKTQT vừa tạo ra những cơ hội để một nước phát triển KTDL, đồng thời nó cũng đặt ra không ít thách thức trong quá trình phát triển.
- Những cơ hội mà HNKTQT đem lại:
+ Tăng thị phần du lịch quốc tế: Theo phương pháp tính tổng cầu du lịch theo tài khoản vệ tinh (Tourism Satellite Account - TSA) là tiêu chuẩn thống kê quốc tế được chấp nhận để đánh giá ảnh hưởng KTDL thì hoạt động KTDL bao gồm các hoạt động kinh tế tổng hợp của KTDL và các ngành kinh tế khác liên quan và phục vụ hoạt động KTDL như hàng hóa phục vụ cho du khách, tiêu dùng của chính phủ cho hoạt động du lịch (kể cả tiêu dùng đầu tư cho bảo tàng, nhà hát, an ninh, hải quan, dịch vụ hàng không…) [26, tr.5].
Vì thế, HNKTQT sâu hơn, rộng hơn sẽ giúp gia tăng thị phần KTDL của các quốc gia trên thế giới. Hội nhập sẽ giúp gia tăng cầu về du lịch, từ đó
cung về du lịch được mở rộng. Kết quả là, KTDL sẽ được phát triển về các mặt: đóng góp của KTDL vào GDP tăng, tăng thu ngoại tệ ròng, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các nước, nâng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế…. Như vậy, phát triển KTDL phải là một nội dung quan trọng trong phát triển KT - XH ở nước ta hiện nay.
+ Cơ hội được cải cách: Đối với DNDL khi hội nhập là sức ép buộc phải có sự cải cách mạnh mẽ tại bản thân mỗi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại trên thị trường. Các DNDL Việt Nam sẽ được tiếp cận và học hỏi trình độ quản lý tiên tiến của các tập đoàn du lịch lớn trên thế giới. Mặt khác, với nhiều kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế, các DNDL nước ngoài sẽ giúp các DNDL Việt Nam chuyển giao kinh nghiệm khai thác khách và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quảng bá và marketing du lịch.
+ Mở rộng thị trường và phát triển những loại hình du lịch mới: HNKTQT là cơ hội cho phép thêm các DNDL lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ kinh doanh gửi khách tại thị trường trong nước sẽ tăng thêm năng lực khai thác khách du lịch inbound (khách du lịch quốc tế vào Việt Nam) và làm cho hoạt động du lịch inbound trong những năm tới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hơn thế nữa, lượng khách du lịch công vụ, MICE đã tăng mạnh sau khi Việt Nam gia nhập WTO và tổ chức thành công sự kiện APEC. Đây cũng chính là cơ hội lớn nhất đối với DNDL nhận khách nội địa khi gia nhập WTO ở Việt Nam.
+ Mở ra cho KTDL ở các quốc gia trên thế giới những cơ hội cạnh tranh mới, từ đó thu hút thêm nhiều vốn đầu tư nước ngoài, tạo công ăn việc làm, nâng cấp CSVC - HT và trang thiết bị cho KTDL. Nhờ những cơ hội cạnh tranh mới mà các hoạt động kinh doanh lữ hành, lưu trú cũng mở rộng, các điểm du lịch, hàng hóa thủ công và các dịch vụ khác cũng phát triển. Thông qua HNKTQT mà KTDL Việt Nam nói chung và các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng có thể học hỏi kinh nghiệm của các vùng, quốc gia ở trên thế giới một cách nhanh chóng và dễ dàng.
+ Cơ hội có được hệ thống chính sách hỗ trợ có hiệu quả: Tạo cơ hội để các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách cho phù hợp để phát triển KTDL. Việc chính phủ cam kết về xây dựng tính minh bạch, có thể dự đoán được trong các quy định và chính sách về phát triển kinh tế nói chung và KTDL nói riêng sẽ tạo ra tiền đề phát triển lành mạnh hơn cho các DNDL.
- Những thách thức của HNKTQT đang đặt ra:
+ Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống: HNKTQT sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia giao lưu kinh tế, đồng thời với quá trình đó, hoạt động văn hóa cũng được giao thoa. Vì vậy, bên cạnh cơ hội chủ động tiếp thu những giá trị văn hóa của thế giới trên cơ sở phát huy bản sắc của truyền thống văn hóa dân tộc sẽ là nguy cơ tiếp thu tràn lan, thiếu chọn lọc, dẫn đến bị mất bản sắc văn hóa truyền thống, bị hòa tan vào trong thế giới toàn cầu hóa.
+ Tăng sức ép về môi trường: Sự phát triển ồ ạt các sản phẩm du lịch ở một quốc gia có thể dẫn đến khó khăn trong quản lý và nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái, làm suy giảm đa dạng sinh học. Ngày nay, hoạt động không có sự kiểm soát của KTDL có thể dẫn đến tàn phá môi trường sinh thái: làm ô nhiễm mặt đất và đại dương, tàn phá cuộc sống hoang dã, làm cạn kiệt các nguồn năng lượng và tài nguyên thiên nhiên v.v…
+ Cạnh tranh: Trong quá trình HNKTQT thì cạnh tranh sẽ là yếu tố diễn ra gay gắt nhất. Cạnh tranh vừa là cơ hội trong quá trình HNKTQT song lại là thách thức lớn đối với các quốc gia. Hiện nay, sự bành trướng của các tập đoàn đa quốc gia đang và sẽ là mối đe dọa lớn đối với các DNDL ở các nước đang phát triển. Các tập đoàn này có lợi thế về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm tổ chức sản xuất, kinh doanh, kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường, sẽ chiếm ưu thế trong cạnh tranh. HNKTQT thì áp lực cạnh tranh về các sản phẩm du lịch ngày càng tăng. Nếu các DNDL ở quốc gia nào đó không đáp ứng được yêu cầu của hội nhập thì sẽ bị thôn tính.
2.3. KINH NGHIỆM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH CỦA NƯỚC NGOÀI CÓ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ NÓI RIÊNG.
Từ tham khảo việc phát triển KTDL của một số nước, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
2.3.1. Nhà nước quan tâm phát triển kinh tế du lịch, coi đây là một ngành công nghiệp không khói.
Một là, cần xác định đúng vai trò của KTDL trong chính sách phát triển KT - XH
Ở ba quốc gia Trung Quốc, Thái Lan, Xingapo đều coi phát triển KTDL như là một lĩnh vực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và đất nước. Từ việc xác định vai trò của KTDL, cả ba nước đều chú trọng hoạch định chính sách về KTDL, tạo môi trường chính sách và pháp luật đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy KTDL phát triển để nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh HNKTQT. Các chính sách về KTDL đều dựa trên bối cảnh phát triển KTDL quốc tế và trong nước, kết quả nghiên cứu thị trường, chính sách của đối thủ cạnh tranh và đòi hỏi bức thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong HNKTQT. Đặc biệt, ở Trung Quốc, chính phủ luôn đóng vai trò trụ cột trong dẫn dắt KTDL phát triển. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hóa quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nền kinh tế Trung Quốc nói chung và KTDL nói riêng đều mang đậm dấu ấn của lãnh đạo nhà nước. Tư duy mô hình phát triển, KTDL Trung Quốc được xây dựng từ thấp đến cao, từ thuần túy mang ý nghĩa phục vụ chính trị sang kinh doanh theo nhu cầu thị trường, từ đơn giản thô ráp sang tinh tế và ngày càng chuyên nghiệp. Những bước tiến rõ rệt qua từng giai đoạn là kết quả của việc cải thiện môi trường chính sách, tháo bỏ rào cản, giải phóng sức sản xuất và trả lại tự do kinh doanh cho xã hội. Nhà nước đã không chỉ quản lý vĩ mô mà còn tham gia quản lý vi mô (thông qua DNDL nhà nước), đề cao tính đồng bộ với tinh
thần trách nhiệm rất cao, giải quyết nhanh những nút thắt cản trở hoạt động kinh doanh du lịch. Chính phủ nước này luôn tạo điều kiện tài chính cho đầu tư CSVC - HT, cũng như cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch, nhằm hiện đại hóa cho KTDL để đảm bảo được những điều kiện vật chất nhất định nhằm phục vụ tốt nhất cho du khách, giữ chân du khách lưu trú dài hơn trong chuyến đi của họ, từ đó KTDL có thu nhập nhiều hơn và sẽ sớm hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Về xây dựng chiến lược cạnh tranh điểm đến, cả ba quốc gia đều xây dựng khá toàn diện. Nội dung kế hoạch nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong từng giai đoạn, phù hợp với định hướng thị trường và yêu cầu thực tiễn phát triển KTDL. Trong bối cảnh HNKTQT, đặc biệt là sự xuất hiện của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 đến nay, KTDL rất dễ bị tổn thương do những biến đổi về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Trong điều kiện, nhu cầu và xu hướng đi du lịch của khách du lịch rất đa dạng và luôn thay đổi, việc xây dựng chiến lược cạnh tranh và có kế hoạch cụ thể, linh hoạt trong từng giai đoạn là rất cần thiết nhằm thích ứng kịp thời với diễn biến mới trên thị trường thế giới.
Hai là, có chính sách quốc gia xuyên suốt cho phát triển KTDL và coi trọng chiến lược KTDL.
Để hỗ trợ thực hiện hiệu quả các chiến dịch phát triển KTDL tổng thể, Chính phủ các nước này đã cung cấp các khoản đầu tư lớn từ nguồn ngân sách cho các hoạt động marketing, xúc tiến điểm đến, phát triển kết cấu hạ tầng du lịch, kết hợp với các biện pháp tạo thuận lợi cho khách du lịch như miễn giảm thuế giá trị gia tăng, miễn thị thực. Cụ thể:
Ở Thái Lan, chính phủ nước này có chính sách quốc gia xuyên suốt để hỗ trợ cho KTDL. Thực chất của chính sách quốc gia xuyên suốt nghĩa là quốc gia này không cần quan tâm KTDL đóng góp bao nhiêu vào GDP, họ chỉ quan tâm du khách đến Thái Lan đã tiêu hết bao nhiêu tiền vào các hàng hóa,
dịch vụ của họ để góp phần phát triển KT - XH nói chung. Họ luôn đặt mục tiêu thu nhập từ khách du lịch nói chung và hiệu quả KT - XH của cả nước lên hàng đầu. Vì thế, chính sách quốc gia của họ là các ngành phải hỗ trợ cho KTDL phát triển để thực hiện xuất khẩu tại chỗ. Chẳng hạn, chính phủ Thái Lan đã áp dụng chính sách Hàng không giá rẻ để thu hút khách du lịch. Ngành Hàng không sẵn sàng hỗ trợ cho KTDL bằng cách: giảm giá vé, từ đó góp phần giảm giá trong một chương trình du lịch Thái Lan. Điều đó, đã cắt nghĩa nguyên nhân tại sao giá cả những tour du lịch Thái Lan rất hợp lý để thu hút khách quốc tế. Điều này, đã khiến cho KTDL đem lại nguồn thu khổng lồ cho đất nước Thái Lan, hỗ trợ cho các ngành kinh tế khác cùng phát triển.
Ở Xingapo, chính phủ nước này coi trọng chiến lược, kế hoạch và các chính sách thúc đẩy phát triển KTDL. Các nhà hoạch định chính sách ở quốc gia này đều tự nhận thức được rằng, muốn phát triển du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu thì phải đặt nó trong chiến lược phát triển KT - XH của quốc gia. Chiến lược ưu tiên phát triển KTDL này phải thông qua một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ nhằm huy động mọi nguồn lực để thực hiện, đưa KTDL phát triển với tốc độ cao và vững chắc. Hệ thống cơ chế chính sách phải xuất phát từ những đặc trưng của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao, mang tính toàn cầu hoá, khu vực hoá. KTDL càng phát triển thì tính chất xã hội hoá của nó càng cao, sự liên ngành và phạm vi hoạt động của nó càng rộng rãi. Ngoài ra, cơ chế và các chính sách phát triển KTDL phải thích ứng với điều kiện lịch sử, tận dụng được thời cơ và vận hội ở từng thời điểm.
2.3.2. Kinh nghiệm lập chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch
Một là, làm tốt chiến lược maketing, tổ chức quảng bá sản phẩm và điểm đến du lịch.
Việc thực hiện chiến lược maketing và quảng bá thương hiệu điểm đến của Trung Quốc, Thái Lan và Xingapo luôn được xây dựng và tổ chức rất công phu, kịch bản rất chặt chẽ và khoa học. Nội dung xúc tiến thường tập
trung vào một hoặc hai sản phẩm cụ thể chứ không dàn trải ra nhiều chi tiết, hạng mục, điểm đến. Họ luôn tham gia các kỳ hội chợ với một hoặc hai sản phẩm du lịch, không nhiều hơn và đó luôn là những sản phẩm đã hoàn chỉnh, chỉ cần bấm nút khởi động. Song dù đã có mặt ở rất nhiều hội chợ, các đơn vị phụ trách công tác xúc tiến của Việt Nam nói chung, các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng chưa học hỏi hay áp dụng cách làm hiệu quả đó. Cụ thể:
Trung Quốc đưa ra các chương trình xúc tiến quảng bá du lịch rất ấn tượng: các chương trình xúc tiến quảng bá được thiết kế thường xuyên, mang tính thống nhất cao và rất đặc trưng. Quốc gia này đã thúc đẩy sự phát triển của KTDL lên đến đỉnh cao nhất có thể. Các chương trình này đã giúp cho KTDL Trung Quốc phát triển năng động hơn, có khả năng biến đổi thời cuộc và ngày càng đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Hai là, coi trọng đầu tư cho chiến lược quảng bá du lịch
Tổng cục Du lịch Thái Lan đặc biệt coi trọng hoạt động marketing thông qua hàng loạt chiến dịch với nguồn kinh phí trung bình hàng năm từ 80 triệu đến 150 triệu đôla Mỹ. Ngoài ra, các DNDL lữ hành phải trích nộp 1 USD/1 du khách để hỗ trợ cho các hoạt động của Tổng cục Du lịch Thái Lan. Hiện nay, với 36 văn phòng đại diện Tổng cục Du lịch Thái Lan trong nước và 21 đại diện của Tổng cục Du lịch Thái Lan ở nước ngoài đã rất tích cực xúc tiến du lịch đất nước ở cả trong và ngoài nước. Nhờ coi trọng đầu tư cho chiến lược quảng bá du lịch mà KTDL ở Thái Lan đã rất thành công trong việc thu hút khách quốc tế, đem lại hiệu quả KT - XH ngày càng cao.
2.3.3. Kinh nghiệm đào tạo nhân lực cho KTDL
Một là, coi trọng bồi dưỡng và sử dụng nhân lực du lịch.
Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm của ba nước Trung Quốc, Thái Lan, Xingapo cho thấy, yếu tố quyết định để phát triển KTDL là chất lượng nguồn nhân lực. Cả ba nước đều thành công trong việc thu hút khách du lịch là nhờ nguồn nhân lực du lịch được đào tạo chuyên nghiệp, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cao, lòng yêu nghề và sự nghiêm túc trong công