Những Lợi Thế Và Hạn Chế Về Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế, Xã Hội Trong Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Ở Các Tỉnh Bắc Trung Bộ


không nhỏ vào việc hình thành những ngành kinh tế biển và góp phần phát triển KTDL của vùng.

3.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

- Điều kiện kinh tế

Từ cổ xưa, cư dân vùng này chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Sử cũ viết rằng, người Chăm trồng hai vụ lúa: từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng trên ruộng bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 của năm kế tiếp trồng lúa đỏ trên ruộng xích điền. Bên cạnh đó, thương mại giao lưu buôn bán cũng đã có thời phát triển phồn thịnh. Ngoài ra, ngành nghề thủ công cũng nổi tiếng từ xưa. Nghề trồng bông, dệt vải, làm chiếu cói là nghề cổ truyền ở vùng này.

Là trung tâm của đất nước thời Tây Sơn và của vương triều nhà Nguyễn nên xung quanh cố đô Huế có nhiều làng dệt, thêu thủ công nổi tiếng. Bằng chính sách cởi mở, khuyến nông, khuyến thương, các chúa Nguyễn đã làm cho vùng Bắc Trung Bộ trở nên thịnh vượng. Những nghề khác như đúc đồng, điêu khắc gỗ, chạm đá cũng rất phát triển.

Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XIX triều Nguyễn đã thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng làm cho nền kinh tế bị suy thoái. Cùng với chính sách đưa dân đi khẩn khai hoang các vùng Phương Nam, nhiều tầng lớp dân cư đã rời Bắc Trung Bộ đi lập nghiệp nơi khác. Trong lịch sử cận hiện đại, Bắc Trung Bộ lại chịu nhiều thử thách khốc liệt của chiến tranh. Cùng với thiên nhiên khắc nghiệt, Bắc Trung Bộ nghèo đi và ít có sự phát triển cơ học về dân số.

Hiện nay, với chính sách mở cửa của nền KTTT và HNKTQT, các tỉnh Bắc Trung Bộ đang được nghiên cứu để đưa vào khai thác các tiềm năng, đặc biệt là tiềm năng KTDL để phát triển KT - XH của vùng trong HNKTQT.

- Điều kiện xã hội

Hiện nay, vùng Bắc Trung Bộ có số dân là 16.556,7 nghìn người; mật độ dân số: 206 người/km2. Ngoài dân tộc Kinh là bộ phận dân cư chủ yếu, trên lãnh thổ vùng Bắc Trung Bộ còn có cư dân của các dân tộc ít người cư trú. Những cư dân vùng Bắc Trung Bộ theo các chúa Nguyễn vào Đàng trong

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.


lập nghiệp đã mang theo đặc trưng văn hóa chủ đạo của mình là văn hóa làng xã. Tuy nhiên, trước một vùng đất có một nền văn hóa phát triển cao, những cư dân mới đã chọn cách hội nhập, hòa hợp làm phương sách ứng xử. Cho nên, có nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến tính đan xen, hỗn dung, tiếp biến như là nét đặc trưng văn hóa cơ bản của vùng Bắc Trung Bộ.

Sự hỗn dung có thể nhận ra trước hết trong tín ngưỡng, thể hiện trong sự pha trộn của Đạo mẫu dân gian. Hình ảnh những tháp Chàm đứng cạnh làng xóm Việt, những đình chùa Việt là hình ảnh dễ nhớ nhất của Bắc Trung Bộ. Sự hỗn dung cũng thể hiện ở tất cả các hình thức sinh hoạt lễ hội và văn hóa dân gian. Nhưng nói đến Bắc Trung Bộ không ai lại không nghĩ ngay đến con người và văn hóa Huế. Chỉ riêng Huế thôi đã đủ làm một nét riêng cho Bắc Trung Bộ. Chính tiếng Huế là yếu tố đặc sắc nhất, cùng với ca Huế, hò Huế, trang phục Huế đã tạo nên một bản sắc văn hóa đặc trưng cho Bắc Trung Bộ.

Nhìn chung, trong những năm gần đây, tình hình phát triển KT - XH của vùng đã có những chuyển biến tích cực, những thành tựu đạt được là khá toàn diện trên mọi lĩnh vực KT - XH và QP - AN. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình cho giai đoạn 5 năm (2005 - 2010) đạt 10,78%/năm, cao hơn mức trung bình của cả nước. Trong đó, tốc độ tăng trưởng trung bình của khối công nghiệp xây dựng của vùng là 16,09%/năm, khối nông nghiệp là 2,91%/năm và khối dịch vụ là 11,64%/năm. Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường với sự tăng trưởng mạnh của tỷ trọng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng các thành phần kinh tế nhà nước (trung ương và địa phương), kinh tế tập thể giảm. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tương ứng. Tỷ lệ lao động khối nông - lâm - ngư nghiệp giảm mạnh trong khi tỷ lệ lao động khối công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng nhanh chóng, đặc biệt là khối thương mại - dịch vụ.


3.1.2. Những lợi thế và hạn chế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong phát triển kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ

3.1.2.1. Những lợi thế

Bắc Trung Bộ là vùng có tiềm năng phong phú và đa dạng về tài nguyên du lịch, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc, tiêu biểu là 06 di sản thế giới được UNESCO công nhận đó là: quần thể di tích cố đô Huế; vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; nhã nhạc Cung đình Huế và thành nhà Hồ. Có thể chia tài nguyên du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ thành 2 loại sau:

+ Tài nguyên du lịch tự nhiên:

Tài nguyên du lịch biển: Bắc Trung Bộ có đường bờ biển dài, không chỉ có tầm quan trọng trong công cuộc chiến đấu, phòng thủ, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh hải quốc gia, mà còn là địa bàn tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú. Nổi trội là các bãi biển với nhiều bãi tắm đẹp, thắng cảnh kỳ thú như: Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò, Cửa Hội, Quỳnh Bảng, Quỳnh Phương (Nghệ An), Xuân Thành, Thiên Cầm, Thạch Hải, Đèo Con (Hà Tĩnh), bãi biển Nhật Lệ (Quảng Bình), bãi biển Cửa Tùng, Cửa Việt, huyện đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) và bãi biển Thuận An, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế)… Các bãi tắm này đã và đang đư ợc khai thác nhằm phục vụ dân cư địa phương và du khách để phát triển KTDL.

Tài nguyên du lịch hang động: Hang động là một sản phẩm tự nhiên của quá trình phong hoá karst ở vùng núi đá vôi. Bắc Trung Bộ có rất nhiều hang đẹp, rộng, có khả năng khai thác phát triển KTDL. Hang động nổi tiếng nhất vùng Bắc Trung Bộ cũng như cả nước là hệ thống hang động Phong Nha - Kẻ Bàng (xem phụ lục 1) nằm ở khu vực phía nam của dải núi đá vôi Kẻ Bàng.

Tài nguyên du lịch sông, hồ, suối nước nóng: Bắc Trung Bộ có nguồn tài nguyên sông, hồ, suối nước nóng phong phú được khai thác phục vụ mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, thể dục thể thao, vui chơi giải trí và chữa bệnh. Các dòng sông lớn ở vùng này, đặc biệt là hệ thống sông Mã, sông Lam, Sông, sông La, sông Bến Hải, sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Hương… đã


tạo điều kiện hình thành các tuyến du lịch trên sông. Đây là một trong những loại hình du lịch hấp dẫn du khách, mang nét đặc trưng của vùng.

Tài nguyên sinh thái: Thể hiện rõ nhất là ở các tỉnh Bắc Trung Bộ có sự đa dạng sinh học cao, nhiều hệ sinh thái đặc trưng, đặc biệt tập trung ở các vườn quốc gia Bến En, Pù Mát, Vũ Quang, Phong Nha - Kẻ Bàng. Với tính nguyên sơ và đa dạng sinh học, Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc Bắc Trung Bộ có ý nghĩa như một bảo tàng sinh vật học khổng lồ ở Việt Nam và đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Sự phong phú, đa dạng về thành phần, chủng loại động thực vật quý hiếm ở vùng Bắc Trung Bộ là hệ quả tất yếu của điều kiện sinh cảnh và là đặc trưng tiêu biểu về sinh thái rừng tại đây. Chính vì vậy, tiềm năng DLST ở vùng này là rất phong phú và đa dạng.

+ Tài nguyên du lịch nhân văn

Bắc Trung Bộ là một trong những trung tâm văn hoá quan trọng của Việt Nam có kho tàng các di sản văn hoá, bao gồm các di sản phi vật thể và di sản vật thể rất đặc sắc, nơi có tới 03 di sản văn hóa thế giới: quần thể di tích cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế, thành nhà Hồ và 01 di sản tư liệu thế giới: mộc bản triều Nguyễn (xem phụ lục 1). Đây là nơi sinh ra nhiều danh nhân văn hoá, chính trị Việt Nam: Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Phan Bội Châu, Trần Phú, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn. Với sự phong phú và đa dạng về tài nguyên du lịch nhân văn, Bắc Trung Bộ là vùng đất có tiềm năng du lịch quan trọng đặc biệt của cả nước.

Di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng, khảo cổ: Ở các tỉnh Bắc Trung Bộ có rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng có giá trị cho hoạt động du lịch, nổi bật: di tích Ngã Ba Đồng Lộc, khu di tích tưởng niệm Nguyễn Du, Quảng Bình Quan, Thành Champa Ninh Viễn, địa đạo Vĩnh Mốc, thành cổ Quảng Trị ... Đặc biệt, di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng gắn liền với cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh có vị trí hết sức quan trọng, có một không hai trong hệ thống tài nguyên nhân văn của tỉnh Nghệ An nói riêng cũng như toàn vùng


nói chung, là đối tượng thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước đến tìm hiểu, tham quan.

Lễ hội và văn hoá dân gian: Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử; là nét văn hoá đặc trưng riêng biệt, linh hồn của mỗi vùng, địa phương. Bắc Trung Bộ là vùng có nhiều di tích lịch sử gắn với nhiều lễ hội truyền thống. Nhiều lễ hội có ý nghĩa lớn về mặt lịch sử, văn hoá, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục các thế hệ sau về truyền thống yêu nước và khôi phục phát triển những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cổ truyền.

Làng nghề thủ công truyền thống: Cũng như các vùng khác trên c

nước, Bắc Trung Bộ là nơi tập trung nhiều làng nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm chất lượng. Thanh Hoá nổi tiếng với nghề dệt chiếu cói ở Nga Sơn, nghề chế tác đá ở Đông Sơn. Nghệ An được biết đến với nghề làm gốm gia dụng bằng tay, nghề thêu đan của đồng bào các dân tộc Thái, Mường, H’Mông. Nói đến Hà Tĩnh thì phải nhắc đến nghề chằm tơ ở Thạch Hương, nghề gốm đất nung ở Cổ Đạm. Vào Quảng Bình chúng ta sẽ biết đến làng nghề làm nón Ba Đồn và các làng mây tre đan truyền thống, nghề nấu rượu ở Kim Long, nghề làm hương Đông Định,… Nghề thủ công truyền thống ở Huế được biết đến với các nghề làm nón ở Tây Hồ, nghề kim hoàn ở Kế Môn, nghề dệt tơ ở Phú Cam và nghề chạm khắc gỗ ở Mỹ Xuyên v.v…

3.1.2.2. Những hạn chế và bất lợi

Bên cạnh những lợi thế, thuận lợi trên, trong xu thế HNKTQT, KTDL vùng Bắc Trung Bộ đang đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đó là:

Lãnh thổ vùng Bắc Trung Bộ nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai như bão, lũ, gió mùa khô nóng (gió Lào)…vì vậy gặp nhiều khó khăn trong hoạt động phát triển KTDL. Cơ sở vật chất - kỹ thuật ở nơi đây nhìn chung còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hướng đến chất lượng dịch vụ, đến thời gian lưu trú và thu nhập từ khách du lịch.


Việc khai thác tài nguyên phục vụ phát triển KT - XH trong phạm vi lãnh thổ vùng Bắc Trung Bộ còn nhiều bất cập, hiệu quả sử dụng tài nguyên hạn chế, tác động tiêu cực đến môi trường, làm giảm tính hấp dẫn của các cảnh quan và ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý khách du lịch. Hệ thống thể chế, chính sách đặc biệt là hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho hoạt động phát triển KT - XH của vùng chưa đồng bộ và thiếu hoàn chỉnh đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của mỗi ngành kinh tế, trong đó có KTDL.

Tuy mức thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với mức trung bình của cả nước. Phát triển kinh tế mới chủ yếu theo chiều rộng, tăng trưởng thiếu bền vững, tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế thấp (đặc biệt sau những khó khăn trong những năm vừa qua). CSVC - HT còn nhiều yếu tố lạc hậu, đặc biệt là hạ tầng giao thông còn thiếu đồng bộ, các công trình đầu mối giao thông quan trọng mới chỉ đang ở giai đoạn quy hoạch. Quy mô sản xuất của các ngành công nghiệp còn nhỏ, chưa có sản phẩm mũi nhọn. Sản xuất nông nghiệp còn nhiều khó khăn do các điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Thương mại, dịch vụ chưa phát triển, đặc biệt, khó khăn trong phát triển sản phẩm du lịch chủ đạo là biển đảo do yếu tố mùa vụ tác động bởi thời tiết. Chuyển sang nền KTTT, đội ngũ lao động du lịch còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng. Đây là những khó khăn không những đối với sự phát triển KTDL mà còn khó khăn đối với các ngành kinh tế khác trong vùng.

Về văn hoá - xã hội, công tác xoá đói giảm nghèo còn thiếu bền vững, chất lượng giáo dục phổ thông còn thấp, chưa đồng đều giữa các địa phương, chất lượng các dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Trình độ dân trí nhìn chung chưa cao, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi. Các hành vi ứng xử kém văn hóa trong giao tiếp với du khách còn khá phổ biến và chưa được quản lý tốt đã làm giảm đi đáng kể chất lượng môi trường du lịch và sức hấp dẫn ở các điểm tham quan, ảnh hưởng đến tâm lý của khách du lịch.


* Đánh giá chung về tiềm năng du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ

Tiềm năng tài nguyên du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ là đa dạng và phong phú với những tài nguyên có giá trị đặc biệt nổi trội về mặt nhân văn, cho phép phát triển nhiều loại hình du lịch, đặc biệt, du lịch văn hóa, du lịch biển và DLST. Đây là những đặc điểm đặc thù và lợi thế đặc biệt về tài nguyên du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, Bắc Trung Bộ cũng là nơi chịu ảnh hưởng nhiều hơn cả về những điều kiện tự nhiên bất lợi đến hoạt động phát triển KTDL.

3.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ DU LỊCH Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY

3.2.1. Thực trạng kinh doanh lữ hành

Hệ thống DNDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ hiện có 33 DNDL lữ hành quốc tế, chiếm 3,0% số DNDL của cả nước. DNDL lữ hành quốc tế hiện chủ yếu tập trung tại Thừa Thiên - Huế (12 doanh nghiệp, bằng 33% tổng số DNDL lữ hành của khu vực), tiếp đến là Nghệ An (10 doanh nghiệp), Quảng Trị (5 doanh nghiệp), Thanh Hóa (4 doanh nghiệp), Hà Tĩnh (1 doanh nghiệp), Quảng Bình (1 doanh nghiệp) [58, tr.42].

Hiện nay, thông qua các dự án đầu tư phát triển KT - XH trên địa bàn, một vài DNDL lữ hành nội địa tại Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế đã tiếp cận với một số thị trường Đông Bắc Á và bước đầu đã tạo được nguồn khách quốc tế đáng kể. Đặc biệt, có một số DNDL đã làm chủ được việc thu hút khách từ Đông Bắc Thái Lan và Nam Lào nhập cảnh vào bằng đường bộ (loại hình caravan) qua cửa khẩu Lao Bảo và Cầu Treo.

Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế và nội địa ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã đưa đón được một lượng lớn cả khách du lịch quốc tế và trong nước. Quy mô lượng khách ngày càng tăng lên và cơ cấu nguồn khách có thay đổi theo hướng tích cực cho KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ:

Năm 2000, KTDL các tỉnh Bắc Trung Bộ mới chỉ đón được 1.796.043 khách du lịch; năm 2005 lượng khách du lịch đến các tỉnh này tăng lên


4.566.547 lượt khách; năm 2010, lượng khách du lịch đến khu vực này đã vượt qua ngưỡng 10,15 triệu lượt và đến cuối năm 2011 con số đó đã đ ạt 11,595 triệu lượt khách du lịch (chiếm tỷ lệ bình quân xấp xỉ 10,02% tổng số lượt khách du lịch đi lại ở Việt Nam). Tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du lịch giai đoạn 2000 - 2011 đạt 18,5%/năm. Với tình hình phát triển khách du lịch như mấy năm gần đây, trong những năm tới nếu cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lùi xa thì chắc chắn KTDL ở các tỉnh Bắc Trung Bộ sẽ phát triển mạnh hơn nữa, tạo đà cho ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh, xứng đáng với vai trò, vị trí trong cơ cấu kinh tế chung của vùng và cả nước.

+ Khách du lịch quốc tế đến Bắc Trung Bộ.

Về tốc độ tăng trưởng lượng khách quốc tế có chiều hướng ngày càng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng trung bình của khách du lịch quốc tế đến vùng Bắc Trung Bộ tương đối cao (14,7%/ năm). Năm 2000 số lượng khách quốc tế đến Bắc Trung Bộ là 245,68 nghìn lượt, đến năm 2005 con số này đã đạt 481,93 nghìn lượt khách, năm 2008 với có số tăng trưởng ấn tượng là 1.001,54 nghìn lượt khách và năm 2011 là 947,35 nghìn lượt khách (biểu đồ 3.1).

Biểu đồ 3.1 : Số lượng khách quốc tế đến các tỉnh Bắc Trung Bộ (2000 - 2011)

Đơn vị: Nghìn lượt khách

Nguồn Số liệu Viện NC PT Du lịch Xử lý Nghiên cứu sinh 1

Nguồn: - Số liệu: Viện NC & PT Du lịch

- Xử lý: Nghiên cứu sinh

Xem tất cả 198 trang.

Ngày đăng: 29/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí