hiện tượng mùa thịnh thì cung du lịch không đủ cầu du lịch, mùa suy thì thiết bị và nhân viên phục vụ nhàn rỗi.
Vì vậy, muốn tối đa hoá lợi nhuận người kinh doanh du lịch cần chú ý đầy đủ tới đặc điểm này để tìm mọi cách áp dụng các biện pháp hữu hiệu, cố gắng giảm thiểu sự chênh lệch giữa mùa thịnh, mùa suy, khai thác tối đa các thiết bị và tài nguyên du lịch nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Việc khắc phục tính mùa vụ luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn cũng như v ề mặt lý luận trong KTDL.
Các chỉ tiêu đánh giá kinh tế du lịch.
Căn cứ vào mục tiêu hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch trên thế giới nói chung và Luật Du lịch của nước ta nói riêng, có thể xác định các chỉ tiêu để đánh giá KTDL bao gồm:
Một là, chỉ tiêu về khách du lịch:“Người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, không phải trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến” [36, tr.8-9].
Hai là, chỉ tiêu về thu nhập từ khách du lịch: Bao gồm các khoản thu do khách du lịch chi trả, đó là: thu nhập từ cơ sở lưu trú và ăn uống, kinh doanh tuyến du lịch, điểm du lịch, từ vận chuyển khách du lịch và từ các dịch vụ du lịch khác. Thực tế cho thấy, tất cả các khoản này không phải chỉ do KTDL trực tiếp thu mà còn do nhiều ngành khác có tham gia các hoạt động du lịch thu. Bên cạnh đó, thu nhập từ khách du lịch còn được thu bởi một số ngành dịch vụ khác không những chỉ phục vụ người dân địa phương, mà còn phục vụ cho cả du khách (ví dụ: giao thông công cộng, bảo hiểm, dịch vụ y tế, ngân hàng, bưu điện, phim ảnh, v.v…).
Ba là, chỉ tiêu về tổng sản phẩm ngành du lịch: “Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng trong hệ thống Tài khoản quốc gia được sử dụng với mục đích nhằm đánh giá kết quả tổng hợp hoạt động kinh tế, nghĩa là đánh giá khối lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, tỉnh, thành phố và từng ngành kinh tế” [57,
tr. 86]. Với cách hiểu đó, GDP áp dụng vào hoạt động du lịch là chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả KTDL của cả nước cũng như của từng vùng, từng trung tâm du lịch trong một giai đoạn phát triển.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Nghiên Cứu Dưới Dạng Sách Và Công Bố Khác
- Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Được Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế - 6
- Tác Động Của Kinh Tế - Xã Hội Đối Với Sự Phát Triển Của Kinh Tế Du Lịch .
- Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Và Tác Động Của Nó Đến Kinh Tế Du Lịch
- Kinh Nghiệm Về Liên Kết, Hợp Tác Trong Phát Triển Ktdl
Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.
Bốn là, chỉ tiêu về hiệu quả KTDL: Xét về hiệu quả kinh doanh thì đây là chỉ tiêu thể hiện mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất, tài nguyên du lịch, nhằm tạo ra và tiêu thụ một khối lượng lớn nhất các dịch vụ và hàng hóa có chất lượng cao trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch với chi phí nhỏ nhất, đạt mức thu nhập từ khách du lịch cao nhất. Hay nói cách khác, hiệu quả KTDL phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực có sẵn để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh cao với chi phí thấp nhất.
Bên cạnh hiệu quả kinh doanh du lịch, hoạt động của KTDL còn phải tính đến hiệu quả KT - XH. Tức là phải tính đến mức đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, sức lôi kéo sự phát triển của các ngành kinh tế khác và hiệu ứng tích cực đối với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững.
2.1.2. Các bộ phận cấu thành kinh tế du lịch
KTDL là một quan hệ kinh tế tổng hợp, bao gồm các quan hệ ngành, nghề chủ yếu là kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
2.1.2.1. Kinh doanh lữ hành
Theo nghĩa rộng, kinh doanh lữ hành được hiểu là doanh nghiệp đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình tạo ra và chuyển giao sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận. Kinh doanh lữ hành có thể là kinh doanh một hoặc nhiều hơn một, hoặc tất cả các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hầu hết các nhu cầu thiết yếu, đặc trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch. Ví dụ, sắp xếp để tiêu thụ hoặc bán các dịch vụ vận chuyển, lưu trú,
chương trình du lịch hoặc bất kỳ dịch vụ du lịch khác; tổ chức hoặc thực hiện các chương trình du lịch vào và ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia; trực tiếp cung cấp hoặc chuyên gia cho thuê dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch; trực tiếp cung cấp hoặc chuyên gia môi giới hỗ trợ các dịch vụ khác có liên quan đến các dịch vụ kể trên trong quá trình tiêu dùng của du khách [29, tr.47].
Theo nghĩa hẹp, kinh doanh lữ hành bao gồm kinh doanh lữ hành nội địa, kinh doanh lữ hành quốc tế. Kinh doanh lữ hành nội địa là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa và phải có đủ ba điều kiện. Kinh doanh lữ hành quốc tế là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế và phải có đủ năm điều kiện. Như vậy, theo định nghĩa này, kinh doanh lữ hành ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp và được xác định một cách rõ ràng sản phẩm của kinh doanh lữ hành là chương trình du lịch [29, 47].
Trên thực tế, khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành chúng ta thường thấy song song tồn tại hai hoạt động phổ biến sau: (i) kinh doanh lữ hành, là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay từng phần; quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đ ại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hư ớng dẫn du lịch. (ii) kinh doanh đại lý lữ hành, là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
Tuy nhiên, cách phân chia như trên chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế, không có nghĩa là tồn tại các doanh nghiệp chỉ kinh doanh đại lý lữ hành với các hoạt động kể trên. Các doanh nghiệp lữ hành đương nhiên được phép tổ chức mạng lưới đại lý lữ hành. Hiện nay, các công ty lữ hành du lịch có nhiều loại khác nhau, với những hoạt động phong phú, đa dạng, phức tạp và biến đổi không ngừng theo sự phát triển của hoạt động du lịch.
2.1.2.2. Kinh doanh lưu trú du lịch
Theo điều 62 Luật Du lịch Việt Nam, cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: khách sạn, làng du lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê và các cơ sở lưu trú du lịch khác [36, tr.55]. Trong đó:
- Khách sạn: là cơ sở lưu trú du lịch, có quy mô từ mười buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ cần thiết phục vụ khách lưu trú và sử dụng dịch vụ.
- Làng du lịch: là cơ sở lưu trú du lịch gồm tập hợp các biệt thự, căn hộ, bãi cắm trại… được xây dựng ở nơi có tài nguyên du lịch, cảnh quan thiên nhiên đẹp, có hệ thống dịch vụ gồm các nhà hàng, quầy bar, cửa hàng mua sắm, khu vui chơi giải trí, thể thao và các tiện ích khác phục vụ khách du lịch.
- Biệt thự du lịch: là biệt thự có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê, có thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Nếu có từ ba biệt thự du lịch trở lên được gọi là cụm biệt thự du lịch.
- Căn hộ du lịch: là căn hộ có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê, có thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Nếu có từ mười căn hộ du lịch trở lên được gọi là khu căn hộ du lịch.
- Bãi cắm trại du lịch: là khu vực đất được quy hoạch ở nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, có kết cấu hạ tầng, có cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch và dịch vụ cần thiết phục vụ khách cắm trại.
- Nhà nghỉ du lịch: là cơ sở lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi cần thiết phục vụ khách du lịch như khách sạn nhưng không đạt tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn.
- Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê: là nơi sinh sống của người sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê lưu trú, có thể có dịch vụ khác theo khả năng đáp ứng của chủ nhà.
- Các cơ sở lưu trú du lịch khác bao gồm: tàu thủy du lịch, tàu hỏa du lịch, caravan, lều du lịch.
Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu. Kinh doanh lưu trú là một trong những ngành, nghề quan trọng đem lại nguồn thu nhập lớn cho KTDL.
2.1.2.3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch
Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ, thường với một khoảng cách xa. Do vậy, khi đề cập đến hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng không thể không đề cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Kinh doanh vận chuyển là hoạt động nhằm giúp cho du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình đến điểm du lịch cũng như là dịch chuyển tại điểm du lịch.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau như ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay… Trên thực tế ít có các DNDL (trừ một số tập đoàn du lịch lớn trên thế giới) có thể đảm nhiệm toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch và tại điểm du lịch. Phần lớn trong các trường hợp, khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh doanh dịch vụ vận chuyển.
2.1.2.4. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch
Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch bao gồm: đầu tư bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có; đưa các tài nguyên du lịch tiềm năng vào khai thác phát triển khu du lịch, điểm du lịch mới; kinh doanh xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, CSVC - KT du lịch.
Theo điều 4 Luật du lịch Việt Nam thì: “Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả
KT - XH và môi trường”. “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” [36, tr.9].
Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch là điều kiện quan trọng không thể thiếu để phát triển sản phẩm dịch vụ du lịch nhằm thu hút du khách và đem lại hiệu quả KT - XH cho quốc gia hoặc vùng có tài nguyên du lịch.
2.1.3. Kinh doanh dịch vụ du lịch khác
Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong các bộ phận cấu thành KTDL còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình dịch vụ vui chơi, giải trí, tuyên truyền, quảng cáo du lịch, tư vấn đầu tư du lịch, v.v…
Việc kinh doanh các loại hình dịch vụ nói trên sẽ góp phần vào chuỗi các sản phẩm, dịch vụ du lịch nhằm cung ứng cho khách du lịch, đem lại lợi ích thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân DNDL.
Ngày nay, cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của KH - CN và sự gia tăng mạnh của các DNDL dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh.
2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ DU LỊCH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH TẾ DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế du lịch với sự phát triển kinh tế - xã hội
Quá trình phát triển của KTDL và quá trình phát triển KT-XH có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
2.2.1.1. Sự tác động của kinh tế du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sự phát triển của KTDL có tác động nhiều mặt đối với đời sống KT - XH. Thể hiện:
- Sự phát triển KTDL góp phần thúc đẩy tăng trưởng của kinh tế.
Trong phạm vi một quốc gia, sự phát triển của KTDL có vai trò góp phần quan trọng trong việc tạo nên thu nhập quốc dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. KTDL sẽ tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng. Hay nói cách khác, KTDL tác động tích cực vào việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập và chi tiêu của nhân dân theo các vùng.
Du lịch nội địa là ngành kinh tế huy động tốt nhất kết cấu hạ tầng vật chất KT - XH, các nguồn lực khác nhau của xã hội cho phát triển kinh tế quốc dân nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Ngoài ra, sự phát triển KTDL nội địa sẽ góp phần nâng cao sức khoẻ cho người dân và do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội. Đồng thời, du lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở lưu trú du lịch của du lịch quốc tế được hợp lý hơn. Vào trước và sau thời vụ du lịch, khi khách quốc tế vắng có thể sử dụng cơ sở lưu trú du lịch ấy vào phục vụ khách du lịch nội địa. Theo cách đó vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của du lịch nội địa, vừa tận dụng được cơ sở lưu trú du lịch.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, KTDL là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả rất cao. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du lịch là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hoá công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, nông lâm sản… theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông qua con đường du lịch, các hàng hoá được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế. KTDL không chỉ thúc đẩy “xuất khẩu tại chỗ” những sản phẩm hữu hình mà còn là ngành “xuất khẩu vô hình” sản phẩm du lịch. Những sản phẩm như các cảnh quan thiên nhiên, khí hậu và ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích lịch sử - văn hoá, tính độc đáo trong truyền thống phong tục tập quán… thông qua hoạt động của KTDL mà đến với người dân ở các quốc gia trên thế giới.
Với hai loại sản phẩm xuất khẩu trên cho thấy hàng hoá và dịch vụ bán thông qua du lịch đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể các chi phí đóng gói bao bì, bảo quản, vận chuyển và thuế xuất khẩu có
khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi suất cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán.
- KTDL phát triển sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tiến bộ.
Sự phát triển của KTDL sẽ góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ngành, nghĩa là khi KTDL phát triển sẽ kéo theo sự tăng giá trị dịch vụ và tăng tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ và các ngành hỗ trợ. Trước hết, hoạt động của KTDL cần có sự tham gia hỗ trợ liên ngành, như giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bưu điện, hải quan... KTDL càng phát triển thì sự tham gia của các ngành, lĩnh vực kinh tế khác càng nhiều. KTDL mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, sự phát triển KTDL tạo các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác.
Đồng thời, KTDL phát triển góp phần thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế ở cả các DNDL nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hỗn hợp và cả các hộ dân… Mặt khác, khi KTDL phát triển cũng có thể giúp thay đổi cơ cấu vùng kinh tế thông qua các hình thức liên kết giữa các tỉnh, giữa các vùng, giữa các nước để mở các tour du lịch.
Phát triển KTDL sẽ góp phần mở mang, thúc đẩy phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt, ở những vùng phát triển KTDL, do xuất hiện nhu cầu đi lại, vận chuyển thông tin liên lạc v.v... của khách du lịch, cũng như những điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động nên các ngành này phát triển. Ngoài ra, du khách không chỉ dừng lại ở điểm du lịch mà trước đó và sau đó du khách có nhu cầu đi lại giữa các điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao thông vận tải phát triển.
- Sự phát triển của KTDL góp phần kích thích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, qua đó làm tăng tổng cầu của nền kinh tế.