Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế - 6


- Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch. Vì cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch không thể dịch chuyển được. Trên thực tế, không thể cung cấp dịch vụ du lịch đến tận tay du khách được mà du khách muốn tiêu dùng dịch vụ phải đến các cơ sở du lịch. Do vậy, các nhà kinh doanh du lịch muốn thu hút du khách du lịch, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch. Đây là một trong những nội dung hết sức quan trọng để phát triển KTDL.

- Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Khi mua sản phẩm vật chất, người mua có quyền sở hữu đối với sản phẩm đó. Còn đối với dịch vụ du lịch thì vấn đề không phải như vậy. Khi khách hàng mua dịch vụ du lịch thì sự tiêu dùng dịch vụ của họ song song với quá trình sản xuất của nhà cung ứng; do vậy, khách hàng chỉ đang mua quyền hưởng thụ dịch vụ do nhà cung ứng mang lại chứ không thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó của nhà cung ứng dịch vụ du lịch.

- Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch. Dịch vụ du lịch là một loại hình dịch vụ đời sống thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch khác với các hoạt động dịch vụ KH - CN, dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống khác ở chỗ: dịch vụ du lịch chỉ thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch, chứ không thoả mãn nhu cầu cho tất cả mọi người trong toàn xã hội, dịch vụ du lịch thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch như: nhu cầu ăn, ở, nghỉ ngơi, tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu lịch sử, văn hoá và các nhu cầu khác. Mặt khác, do khách hàng rất muốn được chăm sóc như những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất. DNDL rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ nhằm thoả mãn tất cả các khách hàng trong mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn ấy phụ thuộc vào sự cảm nhận của du khách...

- Tính không đồng đều về sản lượng. Do quá trình sản xuất dịch vụ du lịch gắn liền với quá trình tiêu thụ nên sản lượng dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu của du khách. Mặt khác, nhu cầu của khách du lịch rất


phong phú, đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời tiết, tình hình chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh, vv... Kết quả là, số lượng khách du lịch thay đổi và kéo theo sản lượng dịch vụ du lịch cũng thay đổi theo từng ngày trong tuần, từng tuần trong tháng, từng tháng trong năm và giữa năm này so với năm khác.

Các loại hình du lịch

Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau:

- Theo phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch, sẽ có du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Du lịch quốc tế, là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia. Với loại hình du lịch này khách du lịch phải qua biên giới và sử dụng dịch vụ ở nơi đến du lịch. Du lịch nội địa, là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.

- Theo nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch có: du lịch chữa bệnh, du lịch nghỉ dưỡng và giải trí, du lịch thể thao, du lịch tham quan, du lịch công vụ, du lịch tâm linh…

- Theo vị trí địa lý của nơi khách đến du lịch có: du lịch núi, du lịch biển, sông, hồ, du lịch thành phố, du lịch đồng quê.

Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế - 6

- Theo phương tiện giao thông phục vụ chuyến đi du lịch của khách có: du lịch bằng xe đạp, du lịch bằng xe máy, du lịch bằng xe ô tô, du lịch bằng tàu hỏa, du lịch bằng tàu thủy, du lịch bằng máy bay…

- Theo hình thức tổ chức chuyến đi, du lịch được phân thành: du lịch theo đoàn và du lịch cá nhân.

- Theo độ dài thời gian chuyến đi của du khách, du lịch được phân thành: du lịch dài ngày và du lịch ngắn ngày v.v…

Việc quan tâm đến các bộ phận trên của du lịch là cần thiết để lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp trong phát triển KTDL trên một địa bàn, lãnh thổ.


2.1.1.2. Kinh tế du lịch

Quan niệm về kinh tế du lịch

Cho đến nay, đã có một vài quan niệm về KTDL với các cách tiếp cận khác nhau.

Theo tác giả Nguyễn Đình Sơn: “KTDL là một phạm trù phản ánh bước tiến mới của lực lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán xuất khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy KT - XH phát triển”.[38, tr. 23]

Nhà nước Việt Nam xác định: “du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao” [13, tr 167 - 168].

Dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả luận án cho rằng, kinh tế du lịch là một quan hệ kinh tế trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, bao gồm các quan hệ ngành, nghề là: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách, đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân DNDL. KTDL là ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những giá trị vật chất và tinh thần rất cao.

Tinh thần ấy cũng được thể hiện tại điều 38, Luật du lịch Việt Nam như sau: Kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề sau đây: i, Kinh doanh lữ hành; ii, Kinh doanh lưu trú du lịch; iii, Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; iv, Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch; v, Kinh doanh dịch vụ du lịch khác [36, tr 38 - 39].

Tính tất yếu ra đời và phát triển của kinh tế du lịch

Sự ra đời và phát triển của KTDL không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một tổ chức nào mà là kết quả tất yếu của quá trình phát triển


của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đạt đến trình độ phát triển nhất định.

Trước đây, trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, dường như chưa có KTDL. Như V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng: Người nông dân có khi suốt đời quanh quẩn trong lãnh địa của địa chủ, không đi xa khỏi các chợ lân cận nhỏ bé [19, tr 63 ].

Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu đi tham quan, du ngoạn của con người đã xuất hiện. Để đáp ứng nhu cầu của du khách, các nhà kinh doanh du lịch đi tìm nguồn lực, tìm hiểu cách thức tổ chức, quản lý của nhau. Từ đó, các quan hệ kinh tế trong kinh doanh du lịch đã nảy sinh. Hoạt động du lịch ban đầu chỉ mang tính chất cá nhân lẻ tẻ, dần dần nó trở nên phổ biến hơn và đa dạng hơn về hình thức. Đi du lịch không chỉ dừng lại ở hình thức cá nhân riêng lẻ mà tiến đến nhóm người, tập thể người, không gian du lịch đồng thời được mở rộng ra trong phạm vi từng lãnh thổ và giữa các lãnh thổ với nhau. Yêu cầu đối với việc tổ chức các chuyến đi ngày càng phức tạp hơn, du khách cần có các tổ chức với tư cách là trung gian trong chuyến đi của mình để thực hiện các hoạt động như bố trí phương tiện đi lại, chỗ ăn nghỉ, hướng dẫn tham quan... Trước yêu cầu đó, các tổ chức kinh doanh du lịch đã ra đ ời. Lúc này hoạt động du lịch không còn là hiện tượng mang tính chất cá nhân, lẻ tẻ mà đã trở thành một hoạt động chuyên nghiệp mang tính chất kinh doanh, hoạt động kinh tế.

Với đại công nghiệp và nhất là với cách mạng KH - CN hiện đại, do năng suất lao động tăng, thu nhập của một số tầng lớp dân cư tăng, dẫn đến tăng cầu về du lịch. Mặt khác, do sản xuất tăng có điều kiện đầu tư vào các ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch, tạo điều kiện vật chất - kỹ thuật cho du lịch nên KTDL tăng. Kinh tế càng phát triển, điều kiện vật chất của xã hội ngày càng được cải thiện và các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống dần được đáp ứng một cách đầy đủ hơn thì con người lại càng có điều kiện để thoả mãn những nhu cầu tinh thần đó của mình. Đây là động lực thúc đẩy KTDL ngày càng phát triển.


Ngày nay, trong xu thế HNKTQT, sự phát triển của KTDL không chỉ dừng ở biên giới quốc gia mà còn mở rộng ra với quy mô toàn cầu. Mặt khác, khi điều kiện về giao thông vận tải càng đạt trình độ cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu thuận lợi cho du khách trong di chuyển từ nơi này đến nơi khác, sẽ là cơ hội tốt để KTDL phát triển.

KTDL ra đời và phát triển như một tất yếu khách quan, trở thành ngành kinh tế độc lập với những đặc trưng riêng.

Đặc điểm của kinh tế du lịch

KTDL là ngành kinh tế dịch vụ, có các đặc điểm như sau:

- Hoạt động của KTDL có tính nhạy cảm.

So với các ngành kinh tế khác, KTDL có tính nhạy cảm cao hơn. Do KTDL gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong quá trình cung cấp dịch vụ đối với du khách, nhà cung ứng cần bố trí chính xác về thời gian, có kế hoạch chu đáo, chi tiết về nội dung các hoạt động, cần phải kết hợp một cách hữu cơ, liên hệ chặt chẽ giữa các khâu vận chuyển hành khách, du ngoạn, ăn uống, lưu trú, vui chơi, giải trí, mua sắm… Giả sử một khâu nào đó không tuân thủ quá trình thì có thể gây ra hàng loạt phản ứng dây chuyền làm mất sự phối hợp nhịp nhàng trong cơ cấu tổ chức, ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ du lịch, do đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh du lịch.

Mặt khác, các nhân tố thiên nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội đều có ảnh hưởng đến KTDL như chiến tranh, động đất, khủng bố kinh tế, bất ổn về chính trị, đại dịch,… đều ảnh hưởng lớn, tạo tâm lý lo ngại cho những du khách khi họ muốn đến điểm du dịch, từ đó cản trở đối với sự phát triển của KTDL. Chẳng hạn, thảm họa động đất, sóng thần ở Nhật Bản (đầu năm 2011) là minh chứng điển hình. Do đó, để khắc phục được “tính nhạy cảm” này, KTDL cần chủ động để có chiến lược đúng đắn trong hoạt động của mình.

- KTDL có tính tổng hợp cao.

KTDL là ngành có tính tổng hợp cao, bởi vì trong quá trình hoạt động du lịch, khách du lịch có nhu cầu về ăn ở, đi lại, du ngoạn, vui chơi giải trí,


mua sắm... Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau đó, nhà cung ứng du lịch cần cung cấp tuyến du lịch, cung cấp tư vấn tin tức, cung cấp các phương tiện giao thông, nhà nghỉ cho du khách... Vì vậy, sản phẩm của KTDL là sản vật tác dụng chung của nhiều bộ phận, là sản phẩm tổng hợp được biểu hiện ra bằng nhiều loại dịch vụ.

Phạm vi hoạt động của KTDL bao gồm các khách sạn du lịch, công ty du lịch, giao thông du lịch, đơn vị bán hàng lưu niệm du lịch… trong đó, có cả các bộ phận sản xuất tư liệu vật chất (công nghệ dệt, ngành xây dựng...) và một số bộ phận sản xuất tư liệu phi vật chất (văn hoá, giáo dục, tôn giáo, khoa học kỹ thuật, hải quan, tài chính, bưu điện...).

Nắm được đặc điểm tổng hợp của KTDL có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng đối với việc quản lý kinh doanh của ngành. Các bộ phận trong KTDL không chỉ có đặc tính hướng đích thông qua nút “thoả mãn nhu cầu của du khách” mà còn liên hệ chặt chẽ với nhau. Bất cứ hành vi chậm trễ hoặc bỏ lỡ dịp của bất kỳ bộ phận nào cũng đều ảnh hưởng tới số lượng khách du lịch. Do vậy, các bộ phận trong KTDL phải hỗ trợ lẫn nhau và cần thiết triển khai kinh doanh liên hợp. Nếu các DNDL theo đuổi lợi ích cục bộ, không phối hợp nhịp nhàng với các DNDL khác có liên quan thì hiệu quả kinh doanh của toàn ngành sẽ bị suy giảm. Vì thế, thực hiện quản lý ngành nghề toàn diện trong KTDL là điều hết sức cần thiết.

- KTDL có tính đa ngành.

Tính đa ngành được thể hiện ở đối tượng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch như: sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hoá, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kèm theo v.v…

KTDL sẽ không phát triển được nếu không có sự trợ giúp của các ngành KT - XH khác như thủ công mỹ nghệ, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giao thông - vận tải, công an, môi trường... Ngược lại, KTDL cũng mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch: bảo hiểm, điện, nước, hàng nông sản, hàng thủ


công mỹ nghệ, tranh ảnh, v.v… Nắm được đặc tính đa ngành trong KTDL đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương cần phải có chính sách phối, kết hợp chặt chẽ, nhằm tạo ra “xung lực’’mạnh mẽ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

- KTDL có tính đa thành phần.

Đặc điểm này được biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, những người phục vụ du lịch, các cộng đồng dân cư trong khu du lịch, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ tham gia vào KTDL. Do đặc tính đa thành phần của KTDL mà nhiều loại hình du lịch khác nhau và dịch vụ mới đã ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của du khách. Tuy nhiên, đặc tính đa thành phần trong KTDL, nếu không được khai thác một cách hợp lý sẽ dẫn đến sự bất đồng quan điểm giữa một số cá nhân hoặc thậm chí là nhiều cá nhân trong đoàn đi du lịch, cũng như mâu thuẫn trong nội bộ những người làm du lịch.

- Cầu của du khách có tính chi phí.

Mục đích của các khách đi du lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục tiêu kiếm tiền. Du khách sẵn sàng trả những khoản chi phí trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như ăn, uống, ở, đi lại và nhiều các chi phí khác nhằm thực hiện được mục đích vui chơi, giải trí, hưởng thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, giá trị văn hoá, lịch sử v.v...

Hiểu rõ đặc tính này, các quốc gia, các nhà kinh doanh du lịch cần có biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đa dạng các loại hình dịch vụ, nhằm thu hút khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của du khách.

Song, thực tế ở một số điểm du lịch nhiều nhà kinh doanh du lịch đã lợi dụng đặc tính này để đẩy mức giá dịch vụ lên quá cao, làm cho sự tin tưởng của du khách đối với nhà cung ứng du lịch giảm sút. Những sai sót này sẽ lan truyền từ du khách này đến du khách khác làm ảnh hưởng đến hình ảnh của KTDL trong con mắt của du khách.


- KTDL có tính liên vùng.

Đặc điểm này biểu hiện thông qua các tuyến du lịch với một quần thể các điểm du lịch trong một khu vực, trong một quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau. Mỗi một điểm du lịch đều có những nét độc đáo, hấp dẫn riêng, song nó không thể tách khỏi xu thế thời đại và sự phát triển chung của khu vực và quốc gia. Vì vậy, bất cứ một khu vực, một quốc gia nào muốn phát triển KTDL cần phải đưa mình vào “quỹ đạo’’ chung của quốc tế và khu vực. KTDL ở một vùng, một quốc gia khó có thể phát triển được nếu không có sự liên kết các tuyến, điểm du lịch trong phạm vi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.

Trên thực tế hiện nay, các địa phương, các DNDL đang khai thác sản phẩm du lịch theo kiểu “mạnh ai nấy làm” dẫn đến hệ quả là các sản phẩm du lịch “trùng nhau” như sản phẩm du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng hoặc có những sản phẩm du lịch đặc thù của từng vùng thì lại “bưng bít”, “thiếu thông tin” đến với du khách đang ở vùng khác. Điều đó dẫn đến hiện tượng là các du khách khi đến du lịch ở tỉnh này nhưng cũng không biết vùng khác đang diễn ra hoạt động văn hóa du lịch gì? Điều này làm thất thu một nguồn thu nhập lớn cho người làm du lịch, đồng thời không làm thõa mãn được nhu cầu lưu trú dài ngày của du khách.

- Hoạt động KTDL có tính thời vụ.

Do ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, thời tiết khí hậu, nên KTDL hầu khắp các nước đều mang “tính thời vụ” đặc trưng. Tại điểm du lịch, điều kiện khí hậu có ảnh rất lớn tới sự hình thành tính thời vụ du lịch. Ngoài ra, tính thời vụ của KTDL có liên quan mật thiết tới việc sắp xếp ngày nghỉ của nhân viên, các kỳ nghỉ của học sinh, sinh viên; sự bố trí sắp xếp này có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của KTDL. Những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố cung - cầu trên khiến hoạt động kinh doanh du lịch có tính mùa vụ rõ rệt, ảnh hưởng tới tỷ lệ cung và cầu của du lịch, gây ra

Xem tất cả 198 trang.

Ngày đăng: 29/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí