Trong Thực Hiện Kiểm Toán Hoạt Động Nâng Cao Vai Trò Kiểm Toán Nhà Nước



từ năm 2017 phù hợp theo thông lệ quốc tế và đang vận dụng có hiệu quả vào HĐKT nước chủ nhà. Hiện nay, KTNN đưa ra dự thảo lần 4 về xử lý trách nhiệm dựa trên kết luận, kiến nghị kiểm toán, đây là văn bản đang được dự thảo ban hành từ năm 2019 để nâng cao tính pháp chế của hệ thống pháp luật KTNN, đẩy mạnh chế tài thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN giúp cho việc kiểm soát chất lượng trong HĐKT được thuận lợi, hiệu lực. Luật KTNN sửa đổi cũng tăng cường trách nhiệm, vai trò của KTNN và khi chủ thể KTNN đưa ra kết luận kiểm toán không phù hợp, ảnh hưởng thiệt hại thì khách thể kiểm toán được quyền khiếu kiện KTNN, đây là quy định phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm nâng cao tính dân chủ, vai trò và trách nhiệm pháp lý cho KTNN.

Thứ tư, vai trò của KTNN được thể hiện rõ nhất ở những năm gần đây, các SAIs giao trọng trách và ủng hộ SAI chủ nhà thực hiện tốt mục tiêu đã định. Với những thành tựu đạt được hơn 25 năm HĐKT, các SAIs đều quan tâm hơn hết đến kết quả KTHĐ của Việt Nam, chỉ ra những hạn chế yếu kém cần khắc phục trong thực hiện vai trò KTNN, từ đó làm động lực phát triển không ngừng và bứt phá cho mọi hoạt động của KTNN Việt Nam khi được giao trọng trách. Kết quả KTHĐ được công bố trước công chúng và được Quốc hội, Chính phủ đánh giá cao về mọi mặt đã đạt được. Kết quả ấy ngày càng được công chúng quan tâm, các cấp, các ngành rất chú trọng đến tình hình diễn biến thực địa và hành vi vi phạm của những đối tượng có liên quan đến quản lý, điều hành được chỉ ra tại kết luận KTHĐ.

Cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào HĐKT và sự phát triển của Công nghiệp 4.0 thích ứng với Chính phủ điện tử và chính quyền điện tử, KTNN đã đạt được những kết quả ban đầu thí điểm trong năm 2018 và tiếp tục thực hiện từ năm 2019 về hợp phần dữ liệu, thu thập bộ dữ liệu qua các cổng thông tin, công nghệ điện tử tương thích với hệ phần mềm KTHĐ nhằm kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động, điều hành và quản lý vốn đầu tư, dự toán, diễn biến tình hình đầu tư phát triển kinh tế, an sinh xã hội. Từ kết quả đó, KTNN lập kế hoạch kiểm toán chiến lược KTHĐ trung hạn, dài hạn, kế hoạch kiểm toán liên tục, định kỳ với các phương thức tổ chức kiểm toán: Tiền kiểm, hiện kiểm và hậu kiểm.

3.4.2 Hạn chế, yếu kém

Tiến trình phát triển không ngừng của KTNN, bên cạnh những thành tựu đạt được cho chúng ta thấy còn nhiều yếu kém, hạn chế trong HĐKT nhất là trong tổ chức KTHĐ nâng cao vai trò KTNN. KTNN cần nhận diện những hạn chế sau:

3.4.2.1 Trong thực hiện kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước

Thực hiện phương thức tiền kiểm, hiện kiểm để đảm bảo được các mục tiêu KTHĐ gắn với vai trò trong giám sát, QLTC, tài sản công đối với SAI Việt Nam hiện nay


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.


còn hạn chế về năng lực, nhân lực, công nghệ, kinh nghiệm và tổ chức. KTNN chưa thực sự chú trọng đến loại hình KTHĐ, kiểm toán liên tục để được TCKT thường xuyên, phân kỳ cho một dự án, chương trình, chính sách đầu tư phát triển từ giai đoạn lập chủ trương đầu tư, kế hoạch vốn đầu tư công, tổ chức đấu thầu thi công và đưa vào vận hành khai thác. Với ý nghĩa của việc TCKT liên tục giúp nâng cao vai trò của KTNN trong giám sát thường xuyên, định kỳ, kiểm soát quản lý trong suốt quá trình hoạt động và QLTC, vốn đầu tư vào các chương trình, dự án. Thực hiện phương thức phân kỳ kiểm soát theo quý (o+n/4) và theo tháng (o+n/12) cho từng năm (o+n) trong KTHĐ phải mất nhiều thời gian, tốn kém chi phí, nhân lực thực hiện trong suốt quá trình hoạt động của chương trình, dự án vì vậy KTNN chưa thể thực hiện được phương thức này.

Kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công ở Việt Nam - 17

Hạn chế của KTNN chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn tổ chức thực hiện phương thức tiền kiểm và hiện kiểm ngay trong giai đoạn đầu của chu trình quản lý dự án; ngoài ra, việc kết hợp giữa các loại hình kiểm toán trong các cuộc KTHĐ vẫn chưa rõ ràng, chưa có phương pháp chuẩn, các KTV chỉ thực hiện kết hợp kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ là nhuần nhuyễn trong các cuộc kiểm toán khác; hiện nay KTNN chỉ tham gia thảo luận dự toán với Bộ tài chính, HĐND các cấp và đưa ra ý kiến thảo luận nhưng chưa có tính pháp lý cao, chưa có chế tài bằng văn bản. Điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò của KTNN và hạn chế đến thẩm quyền kiểm soát, giám sát hoạt động cũng như ý kiến tham vấn của KTNN hiệu lực chưa cao trong mọi giai đoạn của tiến trình QLTC, tài sản công.

3.4.2.2 Trong thực hiện quyền hạn và vị trí pháp lý của bộ máy kiểm toán với việc tổ chức kiểm toán hoạt động

Thứ nhất, quyền hạn, vị trí pháp lý và hợp tác quốc tế

Kể từ khi hình thành và phát triển, KTNN gia nhập đại hội ASOSAI năm 1997, với quyền hạn, vị trí pháp lý của KTNN khẳng định lần đầu tiên đã được KTNN các nước trong khu vực quan tâm. Tuy kết quả của sự vận động tích cực, sau 03 năm hoạt động KTNN lúc bấy giờ còn non trẻ, lực lượng kiểm toán còn mỏng, năng lực để phát triển loại hình KTHĐ chưa được quan tâm như các SAIs kỳ vọng. KTHĐ lúc bấy giờ chưa có phương pháp, quy trình, chuẩn mực được Việt hoá để ứng dụng nên kết quả kiểm toán đang theo hướng chuyên đề lồng ghép thí điểm trong các cuộc kiểm toán ngân sách, chưa mang lại kỳ vọng cao để làm nền tảng cho việc tổ chức KTHĐ.

Với vị trí pháp lý đã được nâng cao, năm 2018 KTNN chính thức là nước chủ nhà của Đại hội ASOSAI lần thứ 14, Đại hội đề cao hơn hết loại hình KTHĐ do SAI chủ nhà làm đầu tầu thực hiện trong các lĩnh vực môi trường, nợ công, biến đổi khí hậu và các lĩnh vực khác có nhiều rủi ro, ảnh hưởng trong toàn khu vực và thế giới. Tổng kết lại kết quả



KTHĐ đạt được và báo cáo định kỳ lên các SAIs thành viên, tuy nhiên SAI Việt Nam đang còn hạn chế về năng lực kỹ thuật chuyên sâu trong các lĩnh vực như: Đa dạng sinh học, biến đổi khí khậu, thảm hoạ môi trường xuyên quốc gia,… Về thẩm quyền công bố kết quả KTHĐ cho thấy, SAI Việt Nam chưa có nhiều thông tin, dữ liệu để báo cáo tổng thể kết quả năm trong nhiệm kỳ đại hội 2018-2021, các SAIs thành viên chưa có đủ thông tin đánh giá hết tình hình HĐKT của SAI nước chủ nhà so với mục tiêu của Đại hội đề ra.

Thứ hai, nâng cao chất lượng tổ chức kiểm toán hoạt động

Hiện nay, tổ chức đoàn, tổ KTHĐ được củng cố phát triển toàn diện về năng lực, trình độ chuyên môn cho KTV tham gia KTHĐ, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn chưa đồng đều, một bộ phận KTV còn ngại khó; đối với việc tổ chức các cuộc KTHĐ, kiểm toán đất đai, chuyên đề, các KTV ngại tiếp cận; chuẩn mực hoạt động và đạo đức công vụ chưa cao; về phát triển kỹ năng nghề nghiệp thông qua các kênh kiến trúc công nghệ thông tin, ngoại ngữ còn hạn chế, KTV thực hiện KTHĐ tinh thần rèn luyện chưa cao, chưa thực sự nghiên cứu, học tập nhằm trang bị kiến thức tin học, ngoại ngữ sẵn sàng là đội ngũ tham gia vào các chương trình đào tạo trong và ngoài nước theo chiến lược phát triển, đào tạo nguồn nhân lực của ngành giai đoạn 2018-2021 và các giai đoạn về sau. Những hạn chế đó làm ảnh hưởng đến sự phát triển vai trò của KTNN, KTNN vẫn chưa có chính sách mạnh về việc rà soát, tinh giảm những cán bộ chưa đủ tiêu chuẩn, chuẩn mực và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.

Công tác giám sát, chỉ đạo điều hành đoàn KTHĐ và kiểm soát chất lượng KTHĐ chưa sát thực tế, biện pháp chế tài chưa đủ mạnh nhằm ngăn chặn rủi ro không mong muốn trong HĐKT; các KTV thực hiện KTHĐ vận dụng phương pháp KTHĐ chưa hiệu quả, nhiều sai phạm trọng yếu bị bỏ sót, trình độ KTHĐ chưa đồng đều gây ảnh hưởng đến chất lượng nghề nghiệp. Nhân sự kiểm toán cho cuộc KTHĐ ngày một tăng cường, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng trong công vụ nhưng so với nhu cầu thực tế vẫn chưa đáp ứng kịp thời, lực lượng KTV trẻ tham gia KTHĐ thiếu kinh nghiệm phải từng bước đào đạo; tinh thần phối hợp và trao đổi thông tin, nghiệp vụ KTHĐ giữa các bộ phận kiểm toán chưa cao. Việc phối hợp thực hiện KTHĐ với khách thể kiểm toán chưa được chặt chẽ, đối tượng được kiểm toán chưa hiểu hết vai trò của KTNN nên hạn chế trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu cho đoàn KTHĐ. Hệ thống mẫu biểu, tài liệu KTHĐ được KTNN gửi trước đơn vị yêu cầu cung cấp thông tin, số liệu nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu; trình độ công nghệ thông tin tài chính yếu kém, năng lực cán bộ tài chính và quản lý chưa đồng đều, thiếu tinh thần trong mối quan hệ hợp tác tổ chức các cuộc KTHĐ.



3.4.2.3 Thực hiện vai trò của KTNN trong mối quan hệ với QLTC, tài sản công qua kiểm toán hoạt động

Thứ nhất, vai trò giám sát, kiểm soát hoạt động của KTNN

Hiện nay, vai trò của KTNN được thiết chế độc lập nhưng chưa đủ mạnh so với yêu cầu đặt ra, hoạt động giám sát, kiểm soát QLTC, tài sản công tại các cấp QLNN được đánh giá chưa vững mạnh vì hệ thống giám sát tài chính công ở nước ta chưa phát triển mạnh. Việc kiểm soát, giám sát hoạt động tại khâu đầu vào và hoạt động của chu trình quản lý các chương trình, dự án, chính sách đầu tư phát triển còn bị bỏ ngỏ như: Phân kỳ kiểm soát theo quý trong năm (o+n/4) và theo tháng của năm (o+n/12) kế hoạch chiến lược KTHĐ theo phương thức tiền kiểm, hiện kiểm nhằm kiểm tra, giám sát thường xuyên, liên tục diễn biến thực địa. Các cấp, các ngành cũng như chủ thể thực hiện các cuộc KTHĐ chưa quan tâm nhiều trong phân kỳ kiểm soát quản lý, chủ thể thực hiện KTHĐ theo kim chỉ nam kế hoạch thực hiện KTHĐ đã được Tổng KTNN phê duyệt mà chưa thể thực hiện sự bứt phá, thay đổi phương thức tổ chức nhân rộng cho các cuộc KTHĐ chiến lược.

Thứ hai, Tham vấn quản lý giúp cho Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật

Tuy hệ thống pháp luật KTNN ngày một hoàn thiện đồng bộ, minh bạch nhưng chế tài chưa đủ mạnh, một số đơn vị được KTHĐ vẫn xem nhẹ vai trò của KTNN khi thực hiện các kết luận, kiến nghị KTHĐ của KTNN. Tính pháp chế đối với một số quy định, văn bản pháp luật KTNN còn chung chung, quy định hướng dẫn phải thường xuyên sửa đổi, cập nhật so với hệ thống pháp luật Nhà nước, pháp luật hiện hành; những kết luận, kiến nghị KTHĐ dựa trên cơ sở của luật pháp nhưng còn nhiều bất cập, đối tượng được kiểm toán hiểu sai chính sách, để xẩy ra sai phạm nghiêm trọng trong quản lý, điều hành, gây thiệt hại và xung đột, tranh cãi giữa các cơ quan hành pháp Nhà nước, điển hình như trong lĩnh vực quy hoạch, bồi thường đất đai, đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu chung cư, khu du lịch,... Trong tiến trình quản lý đầu vào và giai đoạn hoạt động của quá trình thực hiện dự án, chính sách tồn tại nhiều bất cập của quy chế quản lý, quy định, chế tài của pháp luật Nhà nước cũng như pháp luật hiện hành. Những bất cập đó ảnh hưởng lớn đến công tác điều hành, quản lý tại các cấp chính quyền Nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, chức trách của KTNN, vì vậy KTNN sớm nghiên cứu đề xuất sửa đổi những bất cập của CSPL qua công tác tham vấn những chính sách bất cập đã xẩy ra trong giai đoạn tiền hoạt động.

3.4.2.4 Kiểm toán hoạt động các chương trình, dự án trọng điểm

Trong ngành hiện nay với những hạn chế việc tương thích giữa công nghệ



thông tin và nghiệp vụ kiểm toán là vấn đề đáng quan tâm. Với dự án phát triển công nghệ thông tin, định hướng phát triển của KTNN là kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin cần sử dụng hệ phần mềm cơ sở dữ liệu lớn nhưng bộ phận quản trị và tạo lập phần mềm dự án còn hạn chế về kỹ năng, nghiệp vụ kiểm toán, kế toán, tài chính và ngược lại; các KTV tham gia KTHĐ thiếu tinh thông nghiệp vụ công nghệ và tin học hoá, khó khăn trong khâu thực hiện; song hệ dữ liệu, thông tin đa chiều thiếu đồng bộ, hiệu lực chưa cao. Về chương trình, dự án công nghệ thông tin Chính phủ điện tử và Chính quyền điện tử đang dần hoàn thiện để tương thích với cải cách nền hành chính công hiện đại nhưng hiện nay chỉ hiệu lực và tương thích trong một số lĩnh vực trọng điểm như: Ngân hàng, thuế, quản lý tiền tệ, chứng khoán,... và chưa được lan toả đồng bộ sang nhiều lĩnh vực khác. Khó khăn đó đã ảnh hưởng đến HĐKT trong việc tổ chức kiểm toán các chương trình, dự án trọng điểm trong môi trường công nghệ thông tin và KTHĐ mà các SAIs định hướng tại Đại hội ASOSAI 14.

KTNN đã được tiếp cận dự án công nghệ thông tin trong HĐKT, năm 2014 là năm thực hiện KTHĐ độc lập. Tuy kết quả mang lại nhiều dấu ấn nhưng các cuộc KTHĐ chỉ mới bắt đầu tổ chức trên nền tảng của kiểm toán chuyên đề đối với các chương trình, dự án trọng điểm; nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề có lĩnh vực rủi ro cao, gây bức xúc nhiều trong công chúng nhưng chưa được tách biệt tổ chức KTHĐ độc lập; nhiều cuộc KTHĐ các chương trình, dự án trọng điểm có kết quả đáng khích lệ nhưng chưa được TCKT liên tục, kiểm toán định kỳ và thường xuyên như: Các cuộc KTHĐ về nhà ở xã hội, chương trình cấp phép và QLNN về y tế, các dự án đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản dẫn đến những rủi ro, tồn tại khó được kiểm soát, quản lý và uốn nắn thường xuyên, chấn chỉnh kịp thời, điển hình trong đại dịch Covid-19, tình hình đấu thầu, mua sắm thiết bị y tế tăng giá khống, mua bán luân chuyển lòng vòng tại khâu đầu vào, đầu ra, làm thiệt hại vốn, tài chính công, tăng phí khám và trị bệnh của người dân.

3.4.2.5 Quan hệ giữa công chúng với Kiểm toán Nhà nước thông qua KTHĐ

Hiện nay, ảnh hưởng đến tổ chức KTHĐ là sự phân cấp, phân quyền trong quản lý tại các cấp chính quyền chưa rõ ràng, các Bộ, ngành, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân tỉnh ban hành chế tài chưa đủ mạnh về trách nhiệm, quyền hạn giải trình, điều chỉnh báo cáo quyết toán ngân sách theo kiến nghị tại báo cáo KTHĐ dẫn đến các cấp, các đơn vị có liên quan thường uỷ thác trách nhiệm giải trình nội dung KTHĐ cho các đơn vị khác. Việc phối hợp với các cơ quan công quyền khác còn nhiều hạn chế, một số chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo. Việc thẩm vấn các nội dung liên quan tới tổ chức KTHĐ để lấy ý kiến những vấn đề gây bức xúc trong công chúng chưa được quan tâm thực hiện, chỉ thực hiện thu thập thông tin đại chúng trên kênh truyền thông cơ bản.


3.4.3 Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém

Những hạn chế, yếu kém kể trên phát sinh từ những nguyên nhân vốn có, khách quan lẫn chủ quan, một số nguyên nhân chính được phân tích sau đây:

Thứ nhất, về thực hiện KTHĐ nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước

Nguyên nhân khách quan mà KTNN vẫn chưa thực hiện tốt phương thức tiền kiểm, hiện kiểm trong tổ chức KTHĐ là do tư duy lối mòn của loại hình kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính trước đây được xem là kim chỉ nam cho hiệu quả thực hiện kiểm toán, phương thức thực hiện KTHĐ chưa được định hướng với những điều kiện thiết yếu về nhân lực, tài lực và cơ sở vật chất mới được củng cố gần đây nhưng chưa đồng bộ; chính sách tiền lương của Nhà nước chưa được cải cách kịp thời trong giai đoạn hiện nay, thu nhập của KTV chưa tương xứng với năng suất kiểm toán so với các nước trong khu vực ASOSAI nên ảnh hưởng đến chuẩn mực hoạt động; thu nhập của cán bộ, KTV và người lao động chưa đảm bảo mức sống bình quân, ổn định, lộ trình tăng lương trong khu vực công chưa được thực hiện từ trước nên các KTV tham gia KTHĐ cũng gặp nhiều khó khăn khi được giao trọng trách lớn. Một số lĩnh vực kiểm toán khi có thành tích, khen thưởng, đề bạt lại là động lực thúc đẩy làm gia tăng kết quả kiểm toán; trường hợp mức lương, thu nhập của cán bộ, KTV được nâng cao, điều đó làm thay đổi tư duy nghề nghiệp và sáng tạo; từ những nguyên nhân trên về điều kiện, tài chính, cơ sở vật chất không đáp ứng đầy đủ cho HĐKT cũng ảnh hưởng đến chuẩn mực hoạt động và vai trò của KTNN.

Nguyên nhân chủ quan là công cuộc cải cách nền hành chính công chưa hiện đại, chưa đồng bộ tại các cấp QLNN; trình độ tin học, ngoại ngữ của bộ phận cán bộ chưa cao; chính sách pháp luật Nhà nước và hiện hành thay đổi thường xuyên trong cuộc sống; việc thực hiện phương thức KTHĐ phân kỳ kiểm soát liên tục theo quý trong năm (o+n/4) và theo tháng của năm (o+n/12) gặp nhiều khó khăn do tư duy lối mòn tổ chức hậu kiểm của loại hình kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ mà các chủ thể thực hiện KTHĐ chưa có được sự đổi mới, bứt phá; số lượng các cuộc kiểm toán thực hiện chưa cao do năm 2018 KTNN thực hiện chủ trương giảm số lượng đầu mối để nâng cao chất lượng kiểm toán. Nguyên nhân dẫn đến việc khó thay đổi tư duy nghề nghiệp là tất yếu và phải trải qua một quá trình hình thành nên một điều kiện cần và đủ, môi trường CCHC công tốt, tư duy ý thức và chuẩn mực hoạt động được nâng cao.

Thứ hai, về quyền hạn và vị trí pháp lý của bộ máy kiểm toán với việc tổ chức kiểm toán hoạt động và hợp tác quốc tế



Nguyên nhân khách quan do vị thế của KTNN đã được hiến định hoạt động độc lập nhưng vẫn phải phụ thuộc vào các thể chế chính trị, chủ trương, CSPL của Nhà nước trong khuôn khổ Hiến pháp phải sửa đổi thường xuyên qua các thời kỳ. Đến năm 2018, KTNN mới là chủ tịch của Đại hội ASOSAI, kinh nghiệm, năng lực, nhân lực, vật lực của BMKT đang được các SAIs ủng hộ phát triển, môi trường công nghệ thông tin còn hạn chế, các cuộc KTHĐ vẫn chưa thực hiện tổ chức kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin dẫn đến số cuộc KTHĐ tăng chưa đáng kể. Hệ thống QLTC công nước ta phát triển chưa hiện đại, đồng bộ, CCHC công đang hiện đại hóa nhưng chưa thích ứng với công nghiệp

4.0 để đồng bộ hóa các phương pháp, thông lệ thực hiện.

Nguyên nhân chủ quan là các tổ, đoàn KTHĐ vẫn bám sát các kế hoạch kiểm toán khuôn mẫu để thực hiện KTHĐ mà chưa có sự bứt phá làm nền tảng cho sự thay đổi phương thức tổ chức KTHĐ cho kế hoạch kiểm toán kỳ sau; khách thể kiểm toán thường chông chờ vào các kết luận thực hiện kiến nghị kiểm toán để có được sự giải tỏa trách nhiệm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho KTV hàng năm chỉ chú trọng đến kỹ năng kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính các cấp độ. Đối với loại hình KTHĐ còn bị bỏ ngỏ, chưa tăng cường nhiều các chương trình đào tạo từng cấp độ nhân rộng trong toàn ngành theo hướng kinh nghiệm quốc tế gồm: Tập huấn chuẩn mực hoạt động đến từng KTV tham gia các cuộc KTHĐ, kỹ năng lập các tiêu chí kiểm toán, phương thức thực hiện kiểm toán, kế hoạch KTHĐ, báo cáo KTHĐ liên tục, phân kỳ kiểm soát, giám sát các hoạt động, kiểm toán hiện trường, tác nghiệp với khách thể kiểm toán trong một cuộc KTHĐ, kiểm soát chất lượng KTHĐ và kiểm tra, giám sát hoạt động của Lãnh đạo đoàn KTHĐ,... Các kỹ năng trên chưa được quan tâm thường xuyên, các KTV có tâm lý ngại tiếp cận mô hình KTHĐ.

Thứ ba, thực hiện vai trò của KTNN trong QLTC, tài sản công qua KTHĐ

Nguyên nhân khách quan về môi trường kiểm toán tại Việt Nam đối với nhiệm vụ mà các SAIs định hướng như: Đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, thảm hoạ môi trường xuyên quốc gia, công nghệ thông tin, nợ công,… Quản lý các lĩnh vực này còn nhiều sai phạm, tiềm ẩn rủi ro mà việc gắn liền với trách nhiệm quản lý của các cấp, các ngành được xem là nhạy cảm, có nhiều yếu tố trở ngại cho tiến trình TCKT vì liên quan tới việc đấu tranh phòng chống tham nhũng, đưa sai phạm ra ánh sáng. Thiết chế vai trò của KTNN vẫn chưa rõ ràng, chưa đủ mạnh về quyền lực công trong các hoạt động giám sát, kiểm soát độc lập tại các cấp QLNN và hiện trường. Trong vai trò tham vấn quản lý của KTNN, tính pháp chế thi hành pháp luật vẫn đang được ban hành rất thận trọng trong việc đưa ra văn bản xử phạt vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan tới HĐKT. Từ khi hình thành KTNN đến nay, Nhà nước đã có hơn 20 bộ luật được sửa đổi, thay thế, trong đó có luật KTNN, tuy hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện



minh bạch và hiệu lực nhưng có những ảnh hưởng nhất định, việc mạnh dạn sửa đổi những bất cập của luật pháp rất thận trọng. Nguyên nhân chính do các cuộc chiến thương mại toàn cầu thường xuyên xẩy ra ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam từng giai đoạn là tất yếu để thay đổi các chính sách đầu tư phát triển. Cơ hội đầu tư ồ ạt từ các nước phát triển vào Việt Nam kể từ khi gia nhập WTO, cùng với đó là các tập đoàn kinh tế tư nhân trong nước phát triển hùng hậu, tập đoàn kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, giải thể, bị lấn áp; luật phòng chống tham nhũng trước đây chưa đủ mạnh, các bộ luật khác còn nhiều hạn chế, bất cập nên xẩy ra nhiều sai phạm trong QLTC, tài sản công, các cán bộ quản lý cấp cao của Nhà nước khó tránh khỏi những vi phạm khi quyết định một chủ trương, quyết sách đầu tư, giải ngân vốn đầu tư công, vướng bẫy nợ công. Chính vì vậy, vốn đầu tư công những năm gần đây được giải ngân thấp, hiệu quả chưa cao, vốn bị thu hồi hoàn trả theo luật định của ngân hàng thế giới.

Nguyên nhân chủ quan là vai trò KTNN từ trước đến nay chưa thể kiểm soát, kiểm toán độc lập và mạnh dạn đưa ra những kết luận có tính chất phòng ngừa tham nhũng, mặt khác thông tin, số liệu trong các lĩnh vực này để kiểm toán và xác minh thiếu trung thực, đối tượng được kiểm toán hiệu chỉnh dữ liệu hay hợp thức hoá làm giảm hiệu lực kết luận và tham vấn kiểm toán. Cơ quan các cấp bộ ngành, địa phương còn xem nhẹ vai trò phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay và mai sau. Vì vậy, hệ thống pháp luật Nhà nước nói chung, pháp luật KTNN nói riêng liên tục phải sửa đổi hoàn thiện theo thông lệ quốc tế để phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam. Ngành kiểm toán chưa ban hành được văn bản về quy định truy cập, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia và dữ liệu điện tử tại các cấp QLNN để thực hiện vào KTHĐ môi trường công nghệ thông tin. Các cuộc KTHĐ khó thực hiện được các phương thức tiền kiểm, hiện kiểm để giúp cho vai trò KTNN trong kiểm tra, giám sát và kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công nên tư duy chủ quan của KTV tham gia KTHĐ vẫn xem trọng các cuộc kiểm toán chuyên đề trọng điểm đối với các chương trình, dự án, chính sách đầu tư phát triển có nhiều lĩnh vực rủi ro cao.

Thứ tư, về quan hệ giữa công chúng với Kiểm toán Nhà nước thông qua KTHĐ

Nguyên nhân khách quan là sự đầu tư, trang thiết bị về công nghệ số hóa Chính phủ điện tử và chính quyền điện tử đang phải thích ứng dần với công nghiệp 4.0 nên ảnh hưởng đến HĐKT nhất là tổ chức thực hiện KTHĐ trong môi trường công nghệ thông tin, điều đó ảnh hưởng lớn đến sự kết nối giữa công chúng, các cấp QLNN với đoàn KTHĐ trong thực hiện khai thác, thu thập thông tin và phối hợp công vụ. KTNN chưa có chủ trương đầu tư công nghệ số, trí tuệ nhân tạo kết nối giữa kênh thông tin quần chúng và KTNN về các vấn đề bức xúc liên quan đến hoạt động của các chương trình, chính sách, dự án đầu tư phát triển an sinh xã hội.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí