2.4.4. Về Thông tin và truyền thông
- Những mặt chưa làm được
Một số hạn chế rất lớn còn tồn tại trong thông tin và truyền thông tác động là: Ứng dụng hỗ trợ kê khai thuế bằng mã vạch còn nhiều bất cập, bị lỗi, tốc độ xử lý còn chậm, thường xuyên phải được nâng cấp qua nhiều phiên bản; Lỗi hệ thống do đường truyền mạng quá tải, xử lý chậm; Hệ thống các loại mẫu biểu báo cáo còn chưa phù hợp, chưa đầy đủ. Sự truyền đạt thông tin trong toàn hệ hống còn chậm do không đủ kinh phí để lắp đặt, nâng cấp thường xuyên. Việc bảo mật thông tin, dữ liệu kiểm soát chưa chặt chẽ, lưu trữ hồ sơ tài liệu khai thuế, quyết toán thuế TNDN chưa hệ thống, chưa đồng bộ và chưa đáp ứng về thời gian lưu trữ.
- Nguyên nhân tồn tại
Trình độ tin học của công chức thuế nói chung và cán bộ phụ trách mảng tin học nói riêng còn yếu, chưa thật sự đáp cho nhu cầu công việc. Công chức làm công tác kiểm tra thuế chưa được phân quyền sử dụng phần mềm đầy đủ để tra cứu các ứng dụng quản lý thuế và thậm chí còn có trường hợp công chức chưa thành thục về tra cứu ứng dụng dẫn đến trở ngại trong việc kiểm soát dữ liệu cũng như gắn trách nhiệm nếu như có sai sót xảy ra. Bên cạnh đó, các ứng dụng công nghệ thông tin chưa sửa đổi, chưa điều chỉnh kịp thời do mẫu biểu báo cáo sửa đổi theo chính sách mới, quy định mới. Ngoài ra, nguồn thông tin từ các cơ quan quản lý nhà nước khác có liên quan chưa đầy đủ nên nhìn một cách tổng quát thì việc kiểm soát nguồn thu và đặc biệt là thuế TNDN trên địa bàn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
2.4.5. Giám sát
- Những mặt chưa làm được
Thực hiện công việc giám sát do một số Đội trực tiếp quản lý thu thuế đảm nhiệm nhưng chủ yếu là tập trung ở Đội kiểm tra thuế được thực hiện thông qua các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế hay là kiểm tra hồ sơ khai thuế tại bàn ở CCTHBGM.
Hiện nay, việc giám sát này có thể nói là chưa thật sự chú trọng, có thể xảy ra ở nhiều nguyên nhân nhưng một trong những nguyên nhân là do số lượng doanh nghiệp đang quản lý thuế rất lớn, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ để phục vụ cho công tác giám sát.
- Nguyên nhân tồn tại
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Thực Trạng Công Tác Kiểm Soát Nội Bộ Đối Với Hành Vi Tuân Thủ Thuế Tndn Của Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Chi Cục Thuế Huyện Bù Gia Mập
- Thống Kê Kết Quả Khảo Sát Của Yếu Tố Đánh Giá Rủi Ro
- Thống Kê Kết Quả Khảo Sát Của Yếu Tố Thông Tin Và
- Giải Pháp Hoàn Thiện Công Tác Kiểm Soát Nội Bộ Đối Với Hành Vi Tuân Thủ Thuế Tndn Của Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Tại Chi Cục Thuế Huyện Bù Gia Mập
- Kiểm soát nội bộ đối với hành vi tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước - 14
- Kiểm soát nội bộ đối với hành vi tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước - 15
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
Công tác chống thất thu thuế TNDN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của CCTHBGM. Hiện nay, công tác này thực hiện chưa tốt vì nhiều nguyên nhân đó là:
+ Với số công chức làm công tác kiểm tra thuế hiện tại nếu tính bình quân đầu người để quản lý về thuế đối với doanh nghiệp thì không đáp ứng đủ cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin chưa đầy đủ dữ liệu để phục vụ theo yêu cầu quản lý của ngành, công tác phối kết hợp, hỗ trợ trong công tác quản lý thu thuế giữa các phòng liên quan chưa tốt, chưa thực sự kiểm tra giám sát lẫn nhau. Mặt khác, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lực lượng làm công tác kiểm tra thuế chưa đáp ứng được theo yêu cầu công việc; kỹ năng phân tích số liệu trên báo cáo tài chính, quyết toán thuế TNDN trước khi tiến hành kiểm tra thuế tại doanh nghiệp chưa sâu, chưa phát hiện được rủi ro tiềm ẩn dẫn đến phát hiện không đáng kể các sai phạm, thậm chí là không phát hiện được sai phạm làm cho công tác chống thất thu thuế TNDN chưa hiệu quả gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
+ Chưa chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ làm công tác kiểm tra thuế; Chưa thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ về công tác thanh tra, kiểm tra thuế, lớp đào tạo tin học để tra cứu các ứng dụng quản lý thuế và bổ trợ cho công tác giám sát hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp.
+ Bên cạnh đó, đối với việc quản lý thu thuế qua công tác kiểm tra rà soát tại bàn được thực hiện tại CCTHBGM chưa thật sự hiệu quả vì nguồn nhân lực làm công tác này còn yếu, còn mỏng, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc dẫn đến phát hiện không kịp thời và
thậm chí là không phát hiện các rủi ro gian lận về thuế, trốn thuế ngay từ khâu kiểm tra hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp tại cơ quan thuế.
Tại Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập công việc kiểm tra nội bộ được Ban lãnh đạo tổ chức triển khai thực hiện theo quy định nhưng thực sự chưa khoa học, đi theo một quy trình cụ thể. Đặc thù là cơ quan quản lý hành chính cho nên các thành viên trong ban kiểm soát nội bộ thường hoạt động với tinh thần dễ dãi, kiêng nễ lẫn nhau hoặc không muốn làm mất lòng đồng nghiệp thường cho qua những lỗi vi phạm, họ thường không xem trọng công tác kiểm soát nội bộ với lý do là công việc này của chung chứ không của riêng ai nên chưa chú trọng quan tâm.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn thi hành qua những năm gần đây luôn được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của nước ta và sát thực tiễn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Luật quản lý thuế và các văn bản thi hành từ khi có hiệu lực đến nay đã tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý thu thuế và chống thất thu thuế TNDN trên địa bàn đã đạt được kết quả nhất định, tạo môi trường công bằng, cạnh tranh lành mạnh giúp doanh nghiệp ổn định và phát triển.
Ở chương này, tác giả tập trung đánh giá thực trạng công tác kiểm soát nội bộ tại Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập trên cơ sở phân tích 05 thành phần cốt lõi của công tác kiểm soát nội bộ đó là: Môi trường kiểm soát, Đánh giá rủi ro, Hoạt động kiểm soát, Thông tin truyền thông và Giám sát.
Thông qua việc nghiên cứu dữ liệu thứ cấp thực tế tại Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập và qua khảo sát của 18 cá nhân là lãnh đạo Chi cục; lãnh đạo các Đội và chuyên viên, kiểm tra viên đang công tác bên trong nội tại ngành thuế huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước có am hiểu về KSNB. Tác giả sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phân tích, so sánh, tổng hợp suy diễn và tính toán bằng phương pháp tỷ lệ phần trăm để tiến hành thống kê, đánh giá mức độ của các yếu tố thông qua tỷ trọng các ý kiến trả lời của 18 cá nhân nêu trên. Từ đó, đưa ra các đề xuất cần thiết từ những mặt đã làm được và chưa làm được, nguyên nhân tồn tại và đây là cơ sở khoa học để tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ đối với hành vi tuân thủ thuế TNDN tại Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập ở chương III dưới đây.
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ ĐỐI VỚI HÀNH VI TUÂN THỦ THUẾ TNDN CỦA DN VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN BÙ GIA MẬP
3.1. Quan điểm hoàn thiện
Công tác kiểm soát nội bộ phải được xác lập trên cơ sở một số quan điểm nhất định, nhằm khi tổ chức và xây dựng các văn bản cũng như thực thi nhất quán và hiệu quả. Từ thực trạng về công tác kiểm soát nội bộ ở Chi cục Thuế huyện Bù Gia Mập, tác giả đưa ra một số quan điểm hoàn thiện như sau:
- Quan điểm kế thừa
Mục tiêu của ngành thuế nước ta là phải đảm bảo được yêu cầu động viên đóng góp công bằng và hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, giữa các cơ sở kinh doanh trong và ngoài nhà nước trên cơ sở thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế vào NSNN và thu được lòng dân đồng thời chống các hành vi gian lận thuế, trốn thuế, và dây dưa nợ đọng chiếm dụng tiền thuế của NSNN; điều tiết thu nhập cao và quá cao không hợp lý nhằm góp phần thực hiện tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, cân đối thu chi ngân sách, ổn định vật giá, tiền tệ, cân đối tiền hàng; thực hiện kiểm kê, kiểm soát, quản lý, hướng dẫn mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển theo hướng mang lại lợi ích cho nền kinh tế nước nhà, tích cực góp phần thúc đẩy cải tạo, củng cố và hoàn thiện các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường chống đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, gian lận thuế, trốn thuế.
Thực hiện nghiêm chính sách pháp luật thuế, thiết lập trật tự kỷ cương trong việc tuân thủ các quy định về các thủ tục hành chính thuế, khai thuế và nộp thuế; chấp hành tốt việc quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm ngăn ngừa, hạn chế việc sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để đưa vào chi phí hợp lý hợp lệ khi quyết toán thuế TNDN gây thất thu tiền thuế của nhà nước. Mặt khác, số liệu khai thuế, quyết toán thuế cũng như số liệu kế toán phải đảm bảo trung thực, chính xác và phản ánh khách quan về nghĩa vụ thuế và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đáp ứng được cơ chế tự tính, tự khai, tự
nộp và tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp theo quy định của Luật quản lý thuế.
Ngày nay, tuy tổ chức bộ máy, hệ thống văn bản luật cũng như về cơ cấu ngành đã có nhiều bước cải tiến cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế hiện nay nhưng về mặt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thì vẫn luôn được kế thừa và phát huy tích cực. Với chính sách thuế trước đây thường chú trọng đến việc đảm bảo nguồn thu ngân sách, điều tiết thu nhập, tức là bề nổi của công tác thu thuế, còn ngày nay thì chú trọng hơn đến những yếu tố nội tại của ngành thuế, chú trọng những rủi ro bên trong làm ảnh hưởng đến công tác quản lý, thu thuế. Do đó, ngành thuế đang ngày càng hướng đến việc hoàn thiện hệ KSNB của ngành và từng bước nâng cao chất lượng quản lý nhằm đảm bảo tối đa nhất nguồn thu như mục tiêu ngay từ ban đầu thành lập ngành thuế.
- Quan điểm ứng dụng phù hợp với trình độ quản lý thế giới
Những đòi hỏi khách quan và thiết thực đã làm tiền đề cho việc thiết lập công tác kiểm soát nội bộ trong các tổ chức và trong công tác kiểm tra, kiểm soát cần được thực hiện độc lập, có tổ chức và liên tục trong mọi giai đoạn hoạt động. Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 và sau đó là Nghị định số 43/2006/NĐ - CP ngày 24/04/2006 của Chính phủ, Luật kiểm toán nhà nước 2005, xuất phát từ những văn bản pháp quy này, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 110/QĐ –BTC ngày 14/01/2019 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Thuế quận, huyện, thị xã, thành phố và Chi cục Thuế khu vực trực thuộc Cục Thuế tỉnh, thành phố và sau đó là Quyết định số 118/QĐ-TCT ngày 26/01/2011 của Tổng Cục Thuế về việc ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành và chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế là Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 06/7/2007 và Thông tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính.
Những văn bản trên đã đặt nền tảng để hướng tới việc ngày càng hoàn thiện về KSNB và chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy những văn bản hướng dẫn này được xây dựng trên cơ sở tham khảo lý thuyết COSO 1992 và Hướng dẫn
chuẩn mực kiểm soát nội bộ của INTOSAI. Khi chúng ta ứng dụng một cách đúng đắn của lý thuyết COSO và Chuẩn mực kiểm soát nội bộ INTOSAI vào thực trạng ngành thuế nước ta sẽ giúp chúng ta đạt được một số vấn đề sau đây:
+ Tạo một môi trường hoạt động, làm việc hữu hiệu và hiệu quả: Đạo đức, năng lực công chức, viên chức được nâng cao, công việc được phân công đúng người đúng việc.
+ Xây dựng được một công tác kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo công việc được thực hiện đúng quy trình đặt ra và đạt được chất lượng cũng như hiệu quả tốt nhất.
+ Xây dựng tốt một hệ thống nhận diện rủi ro, xử lý tốt các tình huống rủi ro xảy ra hay chí ít cũng là ngăn chặn rủi ro xảy ra một cách thấp nhất.
+ Xây dựng hệ thống thông tin và truyền thông được bảo mật, nhanh chóng, chính xác và đảm bảo yêu cầu đưa ra quyết định của nhà lãnh đạo và tránh được sự rườm rà trong các thủ tục hành chính như trước đây, giúp tiết kiệm thời gian cho người nộp thuế và hạn chế rất nhiều việc mất mát thông tin về người nộp thuế thể hiện qua việc lưu trữ chứng từ giấy nhằm giúp cho công chức thuế cấp dưới và người nộp thuế có thể cập nhật một cách kịp thời nhất các thông tin, chính sách mới về thuế.
+ Giám sát hiệu quả nhằm hạn chế những sai sót xảy ra trong quá trình thực thi nhiệm vụ, nâng cao trách nhiệm và ý thức ủa công chức thuế trong việc xử lý thông tin đồng thời hạn chế những hành vi mang tính tư lợi, cá nhân làm ảnh hưởng không tốt đến mục tiêu của ngành thuế.
- Quan điểm ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm soát
Như chúng ta đã biết, một vấn đề rất quan trọng trong công tác quản lý thu thuế cũng như chống thất thu thuế TNDN chính là việc quản lý và bảo mật thông tin của các đối tượng tham gia nộp thuế. Thông tin của các đối tượng tham gia nộp thuế là một khối lượng dữ liệu rất lớn, mang tính lâu dài và thường xuyên biến động. Vì vậy, để có thể theo dõi các thông tin được chính xác và cập nhật kịp thời làm cơ sở để phục vụ công tác chống thất thu thuế
TNDN thì cần phải hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin phù hợp với công tác này ngày càng phát triển và mở rộng. Đồng thời, đưa các ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho việc kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp giúp giảm thiểu về thời gian đối với việc thực hiện các thủ tục hành chính, các rủi ro do các nguyên nhân về lưu trữ, xử lý thông tin thiếu chính xác như việc nộp bằng giấy trước đây và cũng như bổ trợ hết sức cần thiết cho công tác kiểm soát, rà soát hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế cũng như phục vụ tốt cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế và chống thất thu NSNN.
Tội phạm công nghệ cao ngày càng phổ biến, chúng xuất hiện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Riêng trong lĩnh vực kế toán thuế của doanh nghiệp, các phiên bản của phần mềm hỗ trợ gian lận, trốn thuế ngày càng phức tạp, gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong việc phát hiện các hành vi gian lận. Để đối phó với những hành vi gian lận được thực hiện thông qua công nghệ số, các nhà chức trách cũng cần tìm giải pháp từ công nghệ. Hiện tại, theo quy định tại các văn bản pháp luật của Việt Nam, các doanh nghiệp được phép sửa chữa sai sót trong quá trình ghi sổ kế toán. Để đảm bảo việc sửa chữa không làm thay đổi bản chất các giao dịch kế toán, các quy định về việc lưu giữ các dấu vết sửa đổi, điều chỉnh nhằm cung cấp hoặc trình bày cơ chế, cũng như kiểm soát các dấu vết sửa chữa, điều chỉnh là cần thiết.
Hiện nay, kể từ ngày 01/7/2013 theo quy định tất cả các doanh nghiệp đều phải kê khai, nộp thuế qua đường truyền mạng, tuy bước khởi đầu thực hiện còn gặp nhiều khó khăn như: Đường truyền mạng còn chậm, số lượng doanh nghiệp khá lớn, các doanh nghiệp đã quen với việc kê khai, nộp hồ sơ khai thuế qua giấy nên khi chuyển sang hình thức kê khai thuế qua đường truyền mạng chắc chắn rằng sẽ gây ra nhiều bỡ ngỡ cho người nộp thuế với hình thức mới này và việc chuyển đổi hình thức khai thuế này cũng phải mất khá nhiều thời gian mới đi vào ổn định.