Thời Gian Nhân Vật Và Trình Tự Thời Gian Trần Thuật Được Hiện Đại Hoá


cứu rỗi những tâm hồn ấy. Hay nói cách khác, biển là biểu trưng cho sự phong nhiêu của đời sống tinh thần. Chương từ chỗ chỉ biết mơ đến “toàn những việc làm hàng ngày, chẳng ra gì cả”, thì giờ đã dám nghĩ đến những thứ xa hơn “Tôi đã khao khát tình yêu, như thể người đi trong sa mạc khao khát nước”. Ở đó lẫn lộn nhiều mơ ước xen vào: đấy là hạnh phúc, giọt nước mắt, sự ấm êm, những chân trời, chân trời và mặt biển rộng xa vời”.

Qua nghệ thuật tương phản đối lập cho thấy, không gian trong truyện Nguyễn Huy Thiệp được tả, nhưng không tả quá chi tiết rườm rà, tác giả chỉ nhấn mạnh đến nét chính, ấn tượng nhất, từ xa đến gần từ thấp thoáng đến chi tiết. Dường như không tận mắt chứng kiến, chưa trải qua, người viết không thể có được những chi tiết như thế.

3.4. Thời gian nhân vật và trình tự thời gian trần thuật được hiện đại hoá

Theo M. Bakhtin: “Thái độ đối với thời gian, cảm quan và ý thức về thời gian làm cơ sở sâu xa cho những hình thức trong suốt quá trình phát triển dài hàng nghìn năm của chúng, tất nhiên cũng tiến hoá, cũng biến đổi sâu sắc” [09; 182]. Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí thời gian trần thuật riêng. Hệ quả tất yếu là, truyện ngắn Việt Nam đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến thời gian trần thuật. Cùng với không gian, thời gian của sinh hoạt thế sự thời gian đời tư phụ thuộc vào những trải nghiệm của cá nhân bị chi phối bởi trạng thái tâm lí tình cảm cụ thể của mình. Do thiên hướng nắm bắt chiều sâu tâm lí con người, nhiều tác phẩm văn học giới hạn thời gian sự kiện rất ngắn, ở tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải) sự kiện chỉ diễn ra trong phạm vi vài ba tiếng đồng hồ. Phiên chợ Giát cũng


được gói ghém trong khoảng từ ba giờ sáng đến non trưa, hay Chinatown của Thuận là một cuốn tiểu thuyết về thân phận “tha hương” theo nghĩa rộng nhất của từ này. Thời gian của câu chuyện được kể lại bắt đầu từ lúc "đồng hồ đeo tay chỉ số mười" và kết thúc khi "đồng hồ đeo tay chỉ số mười hai". Chinatown là chuỗi hồi ức dài như cả một đời người của nhân vật xâm nhập vào hiện tại. Ưa chuộng tốc độ (tinh thần của lối sống hiện đại), trình tự thời gian trần thuật trong truyện ngắn sau Đổi mới thường ngắn gọn, nhưng chứa nhiều thông tin. Chỉ vài dòng phát ngôn, người trần thuật vẫn có thể cung cấp và bình luận nhiều sự kiện đang diễn ra trong đời sống. Chẳng hạn, bằng ngôn ngữ cập nhật (lồng vào lời kể chuyện), người trần thuật ẩn tàng trong Cuộn dây (Lê Minh Khuê) đã tải đến người đọc những vấn đề thời sự.

Một đặc điểm trong thời gian nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là tư duy thời gian nhân vật trình tự thời gian trần thuật đã được hiện đại hoá. Nhằm đương đại hoá tư duy thời gian của thế giới nhân vật, Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào tác phẩm của mình thời gian đồng hồ. Điều ấy cũng cho thấy thời gian hiện đại đã ùa vào truyện ngắn, chi phối các phát ngôn của người trần thuật. Nói cách khác, thông qua thời gian trần thuật, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã kịp thời tái hiện sinh động bức tranh xã hội đương đại hôm nay.

Mỗi một biến cố, sự kiện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp bao giờ cũng bắt đầu từ một thời điểm cụ thể kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định, được đánh dấu bằng thời gian đồng hồ. Về điều này, chúng ta thấy trong Không có vua thời gian đồng hồ xuất hiện dầy đặc: “Hôm nào Khiêm cũng đi làm từ mười một giờ đêm đến trưa hôm sau mới về” [110; 44]; “Từ sáu giờ sáng đến mười giờ đêm lúc nào cũng có người chờ cắt tóc. Buổi trưa Cấn ngủ, Khảm ra cắt tóc thay anh. Hôm đầu chưa quen, Khảm cắt phải tai một ông khách làm chảy máu” [110; 44].


Truyện Nguyễn Thị Lộ thời gian đồng hồ cũng được tính đếm ở cuộc hẹn hò đầu tiên của Nguyễn Trãi: “Họ gặp nhau khoảng giờ Tỵ, một ngày thu” [110; 44]. Truyện mang cảm giác về thời gian hiện tại chính điều này khiến Nguyễn Trãi được sống kiếp luân hồi. Từ nhân vật lịch sử bỗng trở thành nhân vật truyện ngắn một con người hiện đại. Cảm giác về thời gian hiện tại được vật chất hoá qua không gian: “Nắng ngoài đường rực rỡ. Những hàng cây cơm nguội nở hoa…Đông Đô thế kỉ XV vào giờ Thìn hay một góc công viên nắng mùa thu Hà Nội?” [110; 298]. Thời gian hiện tại xuất hiện trên cái nền không khí lịch sử nửa cổ, nửa kim cùng với những cảm giác về hiện tại ám ảnh của hình tượng Nguyễn Trãi. Quá khứ đồng hiện cùng thực tại và tương lai, các lớp thời gian chồng lên nhau có khi nhoè mờ, có khi đứt nối. Trong chùm truyện “giả lịch sử”, thời gian đồng hồ được đo bằng tiếng hiệu cầm canh: “trống canh ngoài đình điểm nhịp”, “trống tan canh”; “Đến canh tư, khoảng đầu giờ Dần…”; “Khoảng sang giờ Hợi…”, “gà gáy canh ba…” [110; 70]. Có khi, thời gian đồng hồ được tính bằng “tiếng gà gáy”, bằng vị trí của “mặt trời”, “mặt trăng” trên bầu trời. Một số truyện ngắn khác có tư duy thời gian nhân vật phù hợp với trình tự các sự kiện diễn ra trong tác phẩm. Rõ ràng, nhịp điệu thời đại, tốc độ vận động của cuộc sống đương đại đã tạo nên mạch hối hả khẩn trương trong tác phẩm. Rất nhiều cụm từ chỉ giờ, phút, xuất hiện: mười hai giờ, bốn giờ, một phút rưỡi, vào phút cuối cùng

Bảng 5: Xác định tần số xuất hiện thời gian đồng hồ



Tên tác phẩm

Tần số xuất hiện

Lượt từ chỉ giờ

Lượt từ chỉ phút

1

Chảy đi sông ơi

07

01

2

Tướng về hưu

08

0

3

Hạc vừa bay vừa thảng thốt

08

02

4

Không có vua

20

02

5

Con gái thuỷ thần

06

03

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - 15



6

Những người thợ xẻ

02

01

7

Những bài học nông thôn

05

04

8

Huyền thoại phố phường

06

03

9

Mưa

02

02

10

Truyện tình kể trong đêm mưa

04

01


Nhận xét: Thời gian đồng hồ không phải thi thoảng mới xuất hiện trong truyện ngắn của nhà văn, mà ở đây, nó xuất hiện một cách dày đặc trong tư duy nhân vật: “Lão Kiền bảo: “Mày ngồi vá cho tao cái xăm để góc kia kìa, rồi tao cho tiền”. Khảm nhăn nhó: “Thế thì muộn giờ học còn gì”; “Khiêm xô cửa bước vào hỏi Cấn: “Thằng Tốn đâu?” Cấn ngồi dậy hỏi: “Mấy giờ rồi?”. Nhân vật càng ý thức về thời gian đích xác bao nhiêu, thì họ càng cảm nhận rõ sự đối lập giữa thời gian khách quan với thời gian tâm trạng bấy nhiêu: “Năng cảm thấy mình đã ở những nơi ấy, thậm chí thuộc làu từng khu phố một. Cắt cỏ chỉ hơn tiếng đồng hồ. Cỏ mật rất thơm nhưng trâu không ăn. Sao trâu lại chỉ ăn cỏ gừng cay mà khô, chỉ ăn cỏ cật ráp và ngứa, cỏ nhằng là thứ cỏ dai ngoách?” [110; 366]. Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra thời gian đồng hồ trong tư duy của nhân vật, do đó, nhân vật có lúc hồi tưởng từ hiện tại nhớ về quá khứ hoặc hướng tới tương lai. Những liên hệ tạt ngang của nhân vật, khiến cho tốc độ trần thuật như chậm lại: “Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường sốt ruột và mờ ám...Tôi nghĩ.” [110; 90].

Theo Đặng Anh Đào, trình tự thời gian trần thuật chính là “nghệ thuật xếp đặt những tình tiết hoặc nghệ thuật trình bày các sự kiện trong mối liên hệ với thời gian” [26; 85]. Khi khảo sát từng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp ta thấy tác giả đã phá vỡ khuynh hướng trình tự thời gian “tuần tự nhi biến” của lối kể chuyện truyền thống để tạo nên sự đồng hiện hoặc đảo thuật, chuyện sau kể trước, chuyện trước kể sau. Cũng giống như nhiều nhà văn khác lấy trần thuật khách quan làm phương thức sử dụng, Nguyễn Huy Thiệp


mang giọng trần thuật với những sắc thái riêng. Dưới ngòi bút nhà văn, dường như mọi hiện tượng cụ thể đều được đặt vào trình tự quan hệ với chủng loại khái quát rộng rãi nhất của nó. Chương này, chương khác, nhan nhản những sự đời, những kiếp đời. Tất cả, được xây dựng trên một nguyên tắc trần thuật đa thanh và qua đó, đã góp phần xác lập một cấu trúc thời gian trần thuật đặc thù của truyện ngắn Việt Nam đương đại.

Tiểu kết chương 3:

Khảo sát mối liên hệ giữa không gian và thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cho phép chúng ta hình dung một cách khá cụ thể và xác thực về cơ chế vận động của không - thời gian trong tác phẩm văn học tự sự. Đó là chuỗi thời gian hai lần thời gian nó gắn liền với ý đồ nghệ thuật của tác giả và bị chi phối bởi chỉnh thể nghệ thuật. Nhà văn đã đưa vào truyện ngắn của mình nhiều hình thức không gian và thời gian hết sức linh hoạt. Không gian luôn luôn chuyển đổi kéo theo sự thay đổi thời gian. Có khi không gian vận động như một chiều của thời gian. Từ không gian sinh hoạt xã hội ở thôn quê đến không gian thành thị, từ không gian u ám đến không gian trong trẻo tươi đẹp tuổi thơ. Tất cả đều cho thấy sự vận động qua lại giữa chúng trong cơ chế nghệ thuật của tác phẩm nhằm thể hiện nội dung tư tưởng.


KẾT LUẬN


1. Nghiên cứu không gian thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp giúp ta vừa cảm thụ tác phẩm văn học trong cái cụ thể - sáng tạo của nó, vừa định hình được quan niệm nghệ thuật và phong cách sáng tạo nhà văn. Mặt khác, mối quan hệ giữa không gian và thời gian cho thấy “giữa chúng có một sự giao cắt, tương tác” [103; 65]. Điều này đã được M. Bakhtin đã chỉ ra: “sự tương tác không gian thời gian, chẳng những


là một phương tiện của hoạt động trần thuật mà còn là một nhân tố cho thấy được cái nhìn mang tính quan niệm về hiện thực đời sống” [103; 65].


2. Không gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang tính đặc thù, được thể hiện ở ba cấp độ không gian bối cảnh xã hội, không gian bối cảnh thiên nhiên không gian tâm trạng. Ba bình diện này đã được chúng tôi lần lượt triển khai trong đề tài. Chuyển cái nhìn về thế sự - đời tư, không gian bối cảnh xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã có sự thay đổi. Nếu như ở văn xuôi giai đoạn 1945 – 1975 chúng ta gặp chủ yếu là kiểu không gian lịch sử rộng lớn (một cánh đồng, mặt trận, một con đường, chiến dịch, hoặc một nhà máy...) nơi đó diễn ra các sinh hoạt cộng đồng: khai hoang, lấn biển, hoặc cơ khí hoá...đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không gian đã mang đậm tính cá nhân riêng tư, với những căn phòng chật hẹp, thế giới đồ vật chen lấn, nó gắn với những buồn vui những cảm quan của đời sống. Bên cạnh đó, không gian bối cảnh thiên nhiên còn có một vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Khi xuất hiện trong tác phẩm của nhà văn, thiên nhiên mang dáng dấp riêng được thể hiện bằng những đoạn tả: như không gian dòng sông, không gian biển, không gian núi rừng, không gian con đường. Không gian thiên nhiên được miêu tả vừa thể hiện không khí chân thực của tác phẩm, vừa thể hiện thái độ quan điểm của nhà văn. Cùng với việc nắm bắt và phân tích tâm lí nhân vật, khám phá con người bên trong, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng không gian huyền thoại thực - ảo như một phương tiện nghệ thuật hữu hiệu để khắc hoạ không gian tâm trạng. Không gian ấy không được nhìn nhận một cách an nhiên như trước mà đã đầy nỗi niềm khắc khoải âu lo. Nếu như ở giai đoạn trước, thế giới được nhìn nhận với con mắt lạc quan đầy tin tưởng, con người


luôn tin vào ý chí, sức mạnh và những quy luật đã chiếm lĩnh được, thì giờ đây, con người nhận ra rằng thế giới vẫn mang trong mình nó nhiều điều bí ẩn, và còn đầy bất trắc.


3. Vấn đề thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có hai mặt cơ bản: quan niệm cơ bản của nhà văn về thời gian; và việc nhà văn tổ chức thời gian trong tác phẩm. Quan niệm thời gian của nhà văn trước hết được bộc lộ trực tiếp và phổ biến hơn là qua tổ chức thời gian, một trong những mặt hình thức bên trong của tác phẩm, có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghệ thuật của nhà văn. Thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể được nhận dạng thông qua các bình diện chính như: thời gian trần thuật, thời gian tâm trạng nhịp điệu thời gian. Nghiên cứu thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi đi đến kết luận, trong truyện ngắn của ông, sự tri giác về thời gian và sự thể nghiệm thời gian tuỳ thuộc vào mỗi nhân vật chứ không có thời gian chung. Riêng phần thời gian trần thuật chúng tôi đã vận dụng lí thuyết thời gian của G. Genette để thấy được sự đảo lộn thời gian sự kiện cũng như tự sự dòng ý thức và đồng hiện thời gian trong chùm truyện “lịch sử giả” và “nhại cổ tích”. Về điều này, Nguyễn Huy Thiệp đã tỏ ra chắc tay trong việc đảo lộn thời gian “tuần tự nhi tiến”, nhằm tạo nên trong tác phẩm của mình một trình tự thời gian biến hoá hơn. Nhà văn có thể làm thời gian đồng hiện cho ta thấy cái hôm nay và ngày mai trong khoảnh khắc ngày hôm nay. Nói cách khác, Nguyễn Huy Thiệp có thể san phẳng thời gian theo bình diện của không gian cho quá khứ, hiện tại, tương lai “đồng hiện” lên cùng một lúc. Hoặc về đại thể, vẫn là các sự kiện trước kể trước, sự kiện sau kể sau, nhưng nhiều khi những sự việc xảy ra song song trong cùng một thời điểm liên quan đến các nhân vật khác nhau được kể thành nhiều chương sắp xếp cạnh nhau theo kiểu “cắt dán”. Đối với những trường hợp ấy, thời gian


như ngưng lại đương tiếp nối hàng dọc, chuyển thành song song hàng ngang, rồi sau đó vận động đi lên, rồi ngưng lại và cứ thế cho đến khi kết thúc. Loại thời gian này trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp tạo nên tính phức điệu đa thanh của tác phẩm đòi hỏi người đọc phải có tư duy tinh nhạy nắm bắt được bản chất của mối quan hệ đằng sau thời gian tưởng chừng lộn xộn, phi lôgic.

4. Về mối quan hệ không – thời gian, M. Bakhtin đề xuất khái niệm “chronotope” và ông giới thuyết: “chúng ta dùng khái niệm chronotope (không – thời gian) để chỉ mối quan hệ bản chất giữa không gian và thời gian được thể hiện một cách nghệ thuật trong văn học” [103; 65]. Đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khung không - thời gian là những tín hiệu nghệ thuật hoà quyện làm một chỉnh thể cụ thể cảm tính và mang tính tổ chức cao. Thời gian trở nên ken dày và trở nên hữu hình một cách nghệ thuật, không gian cũng có độ căng và phản ứng theo những vận động của thời gian. Mối quan hệ này không chỉ có ý nghĩa như một công cụ tổ chức hình thức của tác phẩm mà còn là một phạm trù mang tính lịch sử - văn hoá. Điều này khiến không - thời gian là một công cụ giúp ta nhận biết về tiến trình văn học.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Arnanudôp M. (1978), Tâm lí học sáng tạo, Nxb Văn học, H.

2. Thái Phan Vàng Anh (2009), “Thời gian trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí khoa học, ĐH Huế số 54.

3. Tạ Duy Anh, (2007), Người khác, Nxb Hội nhà văn, H.

4. Phan Thị Vàng Anh (1995), Khi người ta trẻ, Nxb Hội nhà văn, H.

5. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh, (sưu tầm và biên soạn), (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới-những vấn đề lí thuyết (q.2), Nxb Hội nhà văn.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/01/2023