Tình Hình Nghiên Cứu Về Không Gian - Thời Gian Nghệ Thuật


115. Wellek R. Warren A. (2009), Lí luận văn học, Nguyễn Tiến Cường dịch, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nxb Văn học, H.

116. Vưtgôxki L. X. (1981), Tâm lí học nghệ thuật, Nxb KHXH, H.

117. Xukhốp Bôrix. (1980), Những số phận của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm Mới, H.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Với nhà văn có thể anh ta sáng tác rất nhiều, nhưng để có được tác phẩm neo bám vào lòng người đọc là điều không dễ, thậm chí rất hiếm hoi. Trên bước đường gập ghềnh làm nghệ thuật, Nguyễn Huy Thiệp đã tự lựa cho mình một lối đi riêng, để khẳng định tên tuổi mình và khuấy động làn sóng phê bình văn học. Nguyễn Huy Thiệp không phải là người đầu tiên mở đầu cho sự nghiệp Đổi mới Văn học Việt Nam sau 1975, nhưng chắc chắn nhắc đến sự nghiệp Đổi mới văn học, không thể không có tên ông.

1.2. Ngay từ những sáng tác đầu tay, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã “có một sức hấp dẫn khó cưỡng lại được”. Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có ý thức cách tân truyện ngắn từ rất sớm, đồng thời cũng là người cầm bút có ý thức triệt để về vấn đề không gian thời gian.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Tình hình nghiên cứu về không gian - thời gian nghệ thuật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Sau đây là những bài viết hoặc công trình của các nhà nghiên cứu có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề không gian thời gian ở các tác giả khác có liên quan đến đề tài mà luận án đang thực hiện. Dẫn theo thời gian xuất bản:

1. Trần Đình Sử, (1982), Thời gian nghệ thuật trong “Truyện Kiều” và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 05. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu đã nhìn nhận thời gian và không gian từ phía khát vọng, hành động của nhân vật, tính chất phũ phàng của các thế lực.

Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - 17

2. Phan Ngọc, (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”, Nxb KHXH. Toàn bộ công trình không bàn nhiều và trực tiếp đến vấn đề không gian và thời gian, nhưng đáng chú ý ở chương IV có tiêu đề: Cách bố cục “Truyện Kiều” theo yêu cầu của kịch.

3. Đặng Thị Hạnh, (1987), Tiểu thuyết Huy-gô, Nxb ĐH&THCN. Ngoài công trình này, bà còn rất nhiều bài nghiên cứu trên Tạp chí Nghiên cứu văn học viết về Thâm Tâm, Xuân Diệu… trong đó đề cập nhiều đến vấn đề thời gian ẩn.

4. Trần Đình Sử, (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm Mới. Trong cuốn chuyên luận này có 2 chương về: Không gian nghệ thuật; Thời gian nghệ thuật.

5. Phùng Văn Tửu, (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, Những tìm tòi đổi mới, Nxb KHXH và Mũi Cà Mau. Cuốn sách được chia là 4 chương. Trong chương 4 với tiêu đề: Người kể chuyện và các điểm nhìn, trong đó có phần Di chuyển điểm nhìn trên trục thời gian nói về sự xáo trộn không gian và thời gian.

6. Trần Đăng Suyền, (1991), Thời gian và không gian trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 05. Trong bài viết này, tác giả nhận định: “Cảm quan về thời gian và không gian gắn liền với cảm quan về con người và cuộc đời, với mơ ước và lí tưởng của nhà văn

7. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (khảo sát trên những nét lớn), LA. PTSKH Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Văn xuôi sau 1975, không gian nghệ thuật phổ biến là không gian sinh hoạt đời thường, không gian mang tính chất cá nhân riêng tư

8. Phạm Hồng Lan, (2009), Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết hiện thực 1930-1945, Luận án Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

9. Trần Văn Toàn, (2010), Tả thực với hoạt động hiện đại hoá văn xuôi hư cấu (fiction) giao thời, (khảo sát trên chất liệu văn học công khai), Luận án Tiến sỹ Ngữ văn ĐHSP Hà Nội.

Nhận xét: Từ kết quả nghiên cứu thật đáng quí ở các công trình trên, chúng tôi có thể tìm được các gợi ý cần thiết để đi sâu nghiên cứu một cách tương đối toàn diện hơn vấn đề không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.

2.2. Tình hình nghiên cứu không - thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Xung quanh hiện tượng văn chương Nguyễn Huy Thiệp có rất nhiều ý kiến gây tranh cãi bởi nhiều khuynh hướng khác nhau vì nhà văn này quá phức tạp. Sau đây chúng tôi xin đề cập đến một số cách tiếp cận và đánh giá truyện ngắn của ông:

Thứ nhất, ở cách tiếp cận và đánh giá sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp từ góc độ mĩ học, xã hội học:

Một số người đã qui chụp thẳng thắn cho những sáng tạo văn chương nghệ thuật của ông “chẳng qua là lối viết quá cũ có người đã từng dùng cách đây vài trăm năm, nay phục chế lại. Đây là kiểu tái hiện văn học hiện thực những năm 30-40 của thế kỉ trước”.

Thứ hai, cách tiếp cận phong cách học:

Tiêu biểu cho lối tiếp cận này có lẽ là nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh với lối tiếp cận chân dung – phong cách, nhằm khám phá tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Nhà nghiên cứu khẳng định và chứng minh một cách khá thuyết phục: “Thiệp là người không có ý định che giấu cái tôi của mình. Một cái tôi lưỡng phân: một mặt coi đời là vô nghĩa, là trò đùa một mặt là cái tôi nghiêm chỉnh đi tìm khuôn mẫu của con người đích thực”.

Ngoài ra, khuynh hướng tiếp cận và đánh giá sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp như là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, họ đã tìm thấy trong đấy những “giọt vàng ròng”, tiêu biểu là Đỗ Đức Hiểu cho rằng: Nguyễn Huy Thiệp đã “tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỉ XX và nâng nó lên một tầm cao mới”.

Các ý kiến tranh cãi dù còn đối lập, vẫn cho thấy một điểm chung: “Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng hiếm, độc đáo. Và hạt nhân sáng tác của anh vẫn không đi ra ngoài vấn đề con người”

Tuy vậy, những nghiên cứu về không gian, thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn rất ít, dưới đây chúng tôi xin tóm tắt cả những ý kiến trực tiếp cũng như gián tiếp bàn về vấn đề này:

1. Hoàng Ngọc Hiến trong bài Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió đã đề cập gián tiếp đến không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Huyền thoại phố phường.

2. Nguyễn Thị Hương trong bài viết: Lời thoại trong truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đã cho rằng không gian trong gia đình “Tướng về hưu” là “một tấn trò đời” thu nhỏ.

3. Đào Duy Hiệp trong bài: Đọc Chút thoáng Xuân Hương đã chú ý đến không gian - thời gian: “Không gian dòng sông con thuyền tượng trưng cho số phận người phụ nữ giữa sóng nước cuộc đời”.

Ngoài những bài phê bình trên, Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn được đề cập thấp thoáng trong các công trình nghiên cứu ở từng phương diện cụ thể. Sau đây, chúng tôi xin nhận xét sơ bộ về việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nói chung và không gian, thời gian trong truyện ngắn của ông nói riêng: Một là, dù đã được chú ý, song vấn đề không gian, thời gian nghệ thuật vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Hai là, việc khám phá vấn đề không gian chưa thấy những biểu hiện đa dạng, và vấn đề thời gian chủ yếu được nghiên cứu từ cấp độ thời gian câu chuyện (thời gian được trần thuật) mà chưa chú ý đến thời gian trần thuật, cũng như mối quan hệ không – thời gian nghệ thuật trong tác phẩm.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn gồm tập truyện ngắn sau: Nguyễn Huy Thiệp, (2005), Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình triển khai đề tài, tác giả luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phương pháp thống kê khảo sát; Phương pháp hệ thống; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh.

5. Đóng góp của luận văn

Dự kiến luận văn có những đóng góp sau:

Là công trình nghiên cứu đầu tiên và hệ thống về Không gian thời gian và nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Kết quả nghiên cứu mở ra nhiều khả năng tiếp cận trong kịch tiểu thuyết, phê bình tiểu luận của nhà văn.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai qua ba chương:

Chương 1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Chương 2. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Chương 3. Mối quan hệ không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP


Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không có hình tượng nghệ thuật nào nằm ngoài không gian và thời gian. Đặc trưng cơ bản của không gian nghệ thuật là: Không gian nghệ thuật mang tính chủ quan ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm trạng. Trong văn xuôi sau 1975, không gian nghệ thuật phổ biến là không gian sinh hoạt đời thường, không gian mang tính chất cá nhân riêng tư. Những căn phòng chật hẹp, bức bối, thế giới đồ vật chen lấn, chèn ép cuộc sống tinh thần. Đó là khoảng không gian xác thực bắt buộc con người phải bộc lộ đến tận cùng bản chất của mình, không có cơ hội lảng tráng trách nhiệm cá nhân, không gian đó làm cho mọi trò của con người diễn bị lật tẩy.

1.1. Không gian bối cảnh xã hội

Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chúng tôi nhận thấy, nhà văn có nhiều sáng tạo bất ngờ độc đáo. Tất cả mọi không gian, nhân vật đều có thể coi là sân khấu để làm trò, từ trò từ thiện, trò hiếu đễ, trò cưới xin, trò sinh nhật, trò làm quan…Nguyễn Huy Thiệp cũng tỏ ra thông hiểu nhiều vùng miền, nhiều thế hệ và nhiều thời đại. Nó có thể là không gian trong lòng thuyền, trong phòng khách và trong phòng ngủ của thị dân: không gian chật chội của cửa hàng vàng bạc bà Thiều; “phòng ngủ” của Diệu, cô Phượng học thức; “căn bếp” nhà lão Kiền.

1.1.1. Không gian “láo nháo, thản nhiên rất đời và ô trọc”

Không gian bối cảnh xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường là không gian hẹp, chật chội, rất nhiều các sự kiện, các thông tin được dồn nén. Có khi, là không gian để các nhân vật diễn trò sân khấu: (Không có vua), không gian của nhà có cả đám ma lẫn đám cưới (Tướng về hưu). Cũng có khi, không gian đó còn rất ô trọc, và rất tục. Đó là không gian của cái “chợ phân” họp trong một tiếng đồng hồ (Chuyện ông Móng), không gian của “cái cống” (Huyền thoại phố phường), không gian ở “bến xe” với những tên để ria con kiến mắt hau háu đang ngắm nhìn những cô nàng “bò lạc”.

Tính chất sân khấu trong không gian gia đình lão Kiền là một minh chứng điển hình. Sau khi nhìn trộm con dâu tắm, bị bắt quả tang, lão Kiền cố vớt vát lấy chút sĩ diện, bảo Đoài: “Bây giờ mày giống đào kép diễn trên tivi”. Có thể khẳng định, không gian trong gia đình này rất chật vì mọi sinh hoạt cá nhân họ phải “cúi xuống rất thấp”, hay “loay hoay”, “lúi húi”, “quanh quẩn”.

Theo thống kê của chúng tôi, trong truyện, từ bếp nhắc lại 10 lần; nhà nhắc lại 53 lần; căn phòng nhắc lại 03 lần; cửa nhắc lại 12 lần; và buồng nhắc lại 06 lần. Tuy nhiên, sự lặp lại của những từ ngữ này, tự nó chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng chỉ trở thành không gian nghệ thuật trong quan niệm biểu hiện mô hình thế giới của tác giả. Vì vậy, căn nhà xuất hiện với tần số cao nhất, trước hết, nhằm biểu thị tính chất chật chội, bon chen nhốn nháo, và đồng thời cũng chính là không gian trung tâm của truyện.

Từ những phân tích ở trên, chúng tôi nhận định rằng, không gian xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là không gian “láo nháo thản nhiên rất đời, rất ô trọc” con người không có hoài bão, xã hội không có tương lai. Ở đấy, con người luôn thường trực cảm giác bất an về một xã hội hiện đại ngổn ngang, phi nhân tính. Tâm lí hoài nghi chán chường phản kháng, chối bỏ của con người luôn được coi là thời thượng.

1.1.2. Không gian tù đọng quẩn quanh, bế tắc

Nghiên cứu không gian tù đọng quẩn quanh bế tắc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi chú ý đến tính chất khép kín của không gian làng quê, không gian hẹp. Ta thấy ở đấy, nông dân đang bị tha hóa dần bởi thú văn hóa thấp kém, trì níu bởi không khí tù đọng ngột ngạt. Tính chất hẹp của không gian “quẩn quanh” được thể hiện ở môi trường hoạt động hẹp của nhân vật.

Nghiên cứu không gian quẩn quanh bế tắc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không thể không nói tới không gian con đường. Trong nhiều tác phẩm, không gian con đường biểu hiện hết sức nổi bật, độc đáo.

Tóm lại, ở phần không gian quẩn quanh tù đọng, Nguyễn Huy Thiệp thường dùng những đoạn tả dài, chủ yếu là không gian khối, đa chiều mang sắc thái nặng nề u ám. Đó là những “cảnh vật chìm trong bầu không khí chết lặng”, “mưa miên man”...

1.2. Không gian bối cảnh thiên nhiên

Không gian thiên nhiên là toàn bộ những khung cảnh cảnh vật xung quanh con người. Con người luôn tồn tại mật thiết với thiên nhiên. Thiên nhiên có khi được nhân hóa, có cảm xúc, đồng cảm với con người. Từ chức năng thay thế, nói hộ, thiên nhiên đã trở thành phương tiện nghệ thuật để nhà văn nắm bắt và phân tích đời sống tâm lí nhân vật. Trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, không gian phong cảnh thiên nhiên chiếm một phần lớn trong trong tác phẩm. Theo thống kê của chúng tôi có tổng cộng: 32 đoạn miêu tả phong cảnh thiên nhiên /485 trang văn bản/ tổng số 50 truyện ngắn.

1.2.1. Không gian dòng sông

Dòng sông đồng thời cũng là biểu tượng của cuộc sống vĩnh hằng, không gian dòng sông đã gợi cho Nguyễn Huy Thiệp một ý thơ vô tận nối liền những sáng tác của ông với truyền thống, nối xưa với nay. Không gian dòng sông, trước tiên, tượng trưng cho sự vô thường của đời người, dòng sông trở thành chứng nhân giữa cái thiện cái ác. Không gian dòng sông với ý nghĩa bí ẩn thể hiện ở chỗ bến sông cũng là không gian chứa đựng những hiểm hoạ mà con người không ngờ tới. Tóm lại, dưới ngòi bút tài năng của Nguyễn Huy Thiệp, những bức tranh miêu tả thiên nhiên dòng sông, đã thực hiện chức năng của chúng một cách xuất sắc, tạo không gian riêng trong tác phẩm và là những bức tranh độc lập. Những bức tranh đó tham gia vào quá trình khám phá, cắt nghĩa đời sống hiện thực.

1.2.2. Không gian biển cả

Trong quan niệm văn hóa nhân loại, biển luôn là không gian tự do để con người bộc lộ những đam mê khao khát. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, không gian biển là biểu tượng của cái tuyệt đích mà con người tìm kiếm, ngưỡng vọng.

Bên cạnh không gian biển còn tồn tại một số không gian: cánh đồng, bầu trời, ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng, cánh rừng và bãi cỏ xanh…thể hiện không gian mơ ước. Có thể nói, không gian biển trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một không gian xa xăm nhưng không phải là một không gian xa lạ gợi những lo sợ về những bất trắc tiềm ẩn mà là một vùng ánh sáng kì diệu, mời gọi con người đi tới.

Xem tất cả 168 trang.

Ngày đăng: 29/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí