so với số vụ án có hội thẩm tham gia xét xử hàng năm [4]. Chưa tính, do phần lớn trong số đó là kiêm nhiệm hoặc cán bộ đã nghỉ hưu, trong khi do hội thẩm được bầu theo nhiệm kỳ nên để đảm bảo nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia theo quy định của Hiến pháp năm 2013 tại Điều 103 khó có thể đảm bảo chất lượng và hiệu quả trên thực tế. Mặt khác, khi tham gia xét xử, bên cạnh yếu tố thời gian, điều kiện làm việc, kiến thức pháp luật, chế độ đãi ngộ,... thì không phải hội thẩm nào cũng hội được các vấn đề về kiến thức xã hội, lĩnh vực chuyên môn hoặc hoàn cảnh thực tế liên quan đến vụ án. Do đó, không ít trường hợp hội thẩm trong quá trình xét xử khi xem xét vấn đề đã đưa ra quan điểm không sát thực, yếu tố đại diện cho người dân không được phát huy như mong muốn.
Chưa kể, do sự quản lý còn khá lỏng lẻo, động lực để hội thẩm tham gia vào vụ án là không cao vì lợi ích cũng như trách nhiệm pháp lý trong các vụ án chưa rò ràng nên rất khó ràng buộc, xử lý khi xẩy ra sai sót do chính hành vi mà họ gây ra. Thậm chí, biện pháp chế tài cao nhất đối với hội thẩm là truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng quy định này hoàn toàn thiếu các căn cứ pháp lý và thực tế áp dụng. Trong trường hợp hậu quả do các hội thẩm gây ra nếu bị phát hiện khi đó sẽ có nhiều lý do để biện minh, như trình độ, năng lực có hạn; điều kiện, thời gian nghiên cứu hồ sơ, xét xử có hạn; hoặc do không còn là hội thẩm, nhưng kể cả khi vẫn đang là hội thẩm thì việc xác định trách nhiệm đối với họ cũng rất khó khăn... Hiện nay, mặc dù có quy định thành lập Đoàn hội thẩm, nhưng đây là tổ chức xã hội nghề nghiệp mang tính tự nguyện để các hội thẩm nhóm họp, trao đổi các vấn đề về công tác hoặc giúp đỡ nhau trong cuộc sống, trong khi đó, xét xử các loại vụ án là lĩnh vực nhạy cảm dễ bị sức ép, tác động và khó tránh khỏi phát sinh tiêu cực...
Như trên đã nói, cùng với kiến thức, năng lực và sự chi phối về điều kiện tham gia nghiên cứu hồ sơ, xét xử, các hội thẩm còn có tư duy “nhiệm kỳ” nên không phải bao giờ và lúc nào họ cũng toàn tâm toàn ý thực hiện nhiệm vụ của mình. Mục đích và yêu cầu đối với hội thẩm như quy định của pháp luật hiện nay và việc đòi hỏi trình độ của họ giống như thẩm phán khi xét xử có quyền “ngang nhau” và áp dụng đúng pháp luật là thiếu cơ sở. Do vậy, hội thẩm là đối tượng có thể dễ bị tác động, thậm chí không ít trường hợp dư luận cho rằng hội thẩm chỉ như người thừa hành của thẩm phán. Chưa kể nếu có tiêu cực xẩy ra thì cũng rất khó xác định.
Nghiên cứu tình trạng án kéo dài, những vụ việc có dấu hiệu oan sai, án oan sai trong TTHS cho thấy có không ít trường hợp do yếu tố hội thẩm nên hoạt động xét xử hình sự hiện nay khiến người dân thiếu tin tưởng.
Việc hoàn thiện chế định hội thẩm phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế đang cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Bởi có như vậy, ý nghĩa và mục đích của việc hội thẩm tham gia TTHS mới mang lại hiệu quả, đồng thời sẽ giúp cho tòa án thực hiện tốt hơn quyền tư pháp, đáp ứng được yêu cầu của xã hội, nhất là trong tiến trình thực hiện cải cách tư pháp và hội nhập hiện nay.
2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
2.4.1. Yếu tố nhận thức
Nhận thức đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi nó là hoạt động đầu tiên, là cơ sở để thực hiện các hoạt động khác. Nếu không có sự nhận thức phù hợp, đúng đắn thì các hoạt động khác khó có thể thực hiện hoặc sẽ gây ra những sai lầm.
Trong TTHS và xét xử vụ án hình sự, nhiệm vụ lớn nhất là ra được bản án, quyết định khách quan, đúng pháp luật. Để thực hiện được điều đó thì HĐXX, trong đó có HTND nhất thiết phải có sự nhận thức đầy đủ về vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình khi xét xử. Hoạt động nhận thức của HĐXX mang tính chủ động nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập trong hồ sơ vụ án, nghiên cứu, kiểm tra và xác minh lại những chứng cứ và diễn biến tại phiên tòa để ra bản án, quyết định về vụ án. Nếu nhận thức đúng đắn thì giai đoạn xét xử mới đạt được hiệu quả, còn nhận thức không đúng đắn, đầy đủ về vụ án có thể dẫn tới sai sót trong quá trình xét xử, ra bản án oan sai không đúng người, không đúng tội.
Việc nhận thức một cách toàn diện, đúng đắn sự thật khách quan về vụ án cùng với các hoạt động tố tụng khác sẽ giúp cho HTND xác định rò nhiệm vụ của mình, từ đó chủ động, độc lập trong việc tiếp cận các thông tin cần thiết liên quan đến vụ án; nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đánh giá các tài liệu, chứng cứ nhằm làm sáng tỏ động cơ, mục đích, diễn biến của vụ án; hiểu được diễn biến tâm lý, các đặc điểm nhân thân của người phạm tội và những người tham gia tố tụng khác; xác định được hậu quả và mức độ nguy hiểm do hành vi tội phạm gây ra đối với xã hội để có sự đánh giá, đưa ra quyết định.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm, Đặc Điểm, Địa Vị Pháp Lý Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Vai Trò Và Các Mối Quan Hệ Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Thể Chế Hóa Bằng Pháp Luật Các Vấn Đề Về Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Quá Trình Phát Triển Của Chế Định Bồi Thẩm Đoàn
- Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Quy Định Về Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự Dưới Chính Quyền Cách Mạng Ở Việt Nam Từ Năm 1945 Đến Hiến Pháp Năm 2013
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
Nếu mục tiêu, ý nghĩa này được nhận thức, thực hiện đầy đủ sẽ có tác dụng rất lớn để quần chúng nhân dân quan tâm, ủng hộ không chỉ với đội ngũ hội thẩm, mà còn đối với hoạt động của tòa án, pháp luật. Sự ủng hộ này góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống dễ dàng hơn, việc tuân thủ, chấp hành các phán quyết do tòa án đưa ra sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, người dân cũng sẽ tin tưởng, tích cực tham gia, chia sẻ và hỗ trợ cho hoạt động của hội thẩm, tòa án. Ngược lại, nếu cộng đồng xã hội hiểu sai, nhận thức không đầy đủ khi đó họ sẽ thiếu niềm tin, nghi ngờ, thậm chí ngăn cản, tìm cách đối phó trên nhiều phương diện về phán quyết của tòa án, hoạt động của hội thẩm. Khi đó, không những việc thực thi pháp luật, mà cụ thể là các phán quyết của tòa án sẽ gặp khó khăn, mà tính răn đe, phòng ngừa cũng bị hạn chế, vai trò của hội thẩm trong giải thích, tuyên truyền pháp luật sẽ khó đạt hiệu quả.
Đối với chính HTND, khi nhận thức đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ có thêm động lực, niềm tin và bản lĩnh để tham gia xét xử hiệu quả. Trường hợp ngược lại sẽ không thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, thậm chí sẽ không chú tâm vào việc nâng cao năng lực, dẫn đến sai phạm trong TTHS.
Từ đó cho thấy, vấn đề nhận thức sao cho đúng, phù hợp về chế định HTND cũng như vai trò của HTND trong TTHS có ý nghĩa về nhiều mặt. Làm tốt điều này, không những sẽ giúp cho việc thống nhất về quan điểm, hoàn thiện các văn bản quy định về chế định HTND có hệ thống, đầy đủ, chặt chẽ hơn, mà còn làm cho quá trình triển khai, áp dụng pháp luật được đồng bộ, có hiệu lực cao. Khi đó, bản chất dân chủ sẽ được thể hiện rò hơn, các mục đích, yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ của HTND đáp ứng, đồng thời sẽ góp phần hạn chế, khắc phục được tình trạng oan sai trong TTHS.
2.4.2. Yếu tố chính trị – xã hội
Bao gồm tổng thể các điều kiện, quan điểm về tư tưởng, chính trị, văn hóa, kinh tế, đời sống xã hội. Những yếu tố này có tác động bao trùm, trực tiếp đến việc nhận thức, quy định và hoạt động tố tụng nói chung và với chế định hội thẩm nói riêng.
Một hệ thống chính trị năng động, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, phù hợp với xu hướng phát triển sẽ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy cho sự hoàn thiện về pháp luật. Chủ trương, đường lối chính trị, chính sách pháp luật của nhà nước của lực lượng thống trị xã hội nói chung và ở mỗi giai đoạn nhất định có tác động rất lớn đến mô hình tổ chức, đường lối xét xử.
Trong bối cảnh kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao, đời sống xã hội đảm bảo, sẽ góp phần ổn định, thuận lợi trong xây dựng và thực thi pháp luật. Ngược lại, với nền kinh tế lạc hậu, xã hội kém phát triển, không những ảnh hưởng đến quá trình xây dựng, tổ chức mô hình tư pháp mà còn gặp không ít khó khăn trong việc nâng cao nhận thức, thực thi pháp luật. Chẳng hạn, ở hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền mới được thiết lập, nền kinh tế khó khăn, dân trí thấp là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng, tuyên truyền, thực hiện pháp luật. Một đất nước mà đại đa số người dân còn phải lo cơm ăn áo mặc hàng ngày, phong tục tập quán mỗi nơi một khác, sự phân biệt về giai tầng vẫn nặng nề, khả năng nhận thức khác nhau thì sẽ rất khó để lựa chọn được những người vừa hiểu biết xã hội vừa có kiến thức pháp luật đại diện cho quảng đại quần chúng để tham gia xét xử, nhất là đối với các vụ án hình sự.
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm thực hiện chủ trương đổi mới, cùng với tình hình chính trị ổn định, kinh tế - xã hội duy trì tăng trưởng bên vững, đời sống của người dân ngày càng được nâng lên về mọi mặt là những yếu tố cực kỳ quan trọng để đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện pháp luật. Đơn cử, pháp luật hình sự quy định liên quan đến tội phạm về ma túy, tình dục – từ chỗ chỉ đơn thuần một vài điều luật, nay hình thành những nhóm tội với nhiều điều luật cụ thể hơn; tội xâm phạm tài sản XHCN, trước đây có hẳn pháp lệnh riêng (Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN – Pháp lệnh số 149-LCT, ngày 21/10/1970) hay “tội đầu cơ” quy định tại Điều 160 BLHS năm 1999 đến nay đã có một số thay đổi,… Sự thay đổi này xuất phát từ quan điểm chính trị với nhận thức và hoàn cảnh xã hội mới nên đã được điều chỉnh để phù hợp thực tế. Tuy nhiên, đến nay do HTND được bầu theo nhiệm kỳ và với số lượng nhất định và tham gia xét xử các loại án khác nhau nên yếu tố cơ cấu về hội thẩm vẫn nặng nề; vấn đề nhận thức, quan điểm xét xử và với cách thức tổ chức, quản lý tòa án theo cấp hành chính (TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh) gắn với công tác tổ chức Đảng và do các yếu tố văn hóa, quan hệ truyền thống họ tộc, thói quen tư duy cảm tính còn ảnh hưởng cao trong đời sống xã hội nên ít nhiều tác động đến hoạt động xét xử. Do đó, một số biểu hiện như né tránh, ngại va chạm,… đối với HTND khi tham gia xét xử án hình sự vẫn diễn ra.
Trình độ dân trí ngày càng cao, điều kiện khoa học công nghệ phát triển, quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ vừa là động lực nhưng cũng vừa là yêu cầu đổi mới thể chế, chính sách pháp luật, đòi hỏi cần phải đẩy mạnh cải cách tư pháp, nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực thi pháp luật, nhất là trong TTHS.
2.4.3. Mô hình tổ chức
Thực tiễn cho thấy, trên thế giới, do quan điểm, điều kiện, hoàn cảnh chính trị - xã hội khác nhau mà có mô hình tố tụng khác nhau. Tại Mỹ, Anh, Pháp,… tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực khá độc lập, hoạt động xét xử rất được chú trọng và các bồi thẩm viên tham gia xét xử tại các phiên tòa hình sự. Các bồi thẩm viên được lựa chọn ngẫu nhiên với số lượng lớn để cùng tham gia xét xử mỗi vụ án hình sự gọi là bồi thẩm đoàn, nhưng không cùng thẩm phán thực hiện đầy đủ cả quá trình xét xử (việc định tội, tuyên án thuộc về thẩm phán). Bên cạnh đó, ở một số quốc gia lại áp dụng mô hình xét xử xen kẽ giữa thẩm phán và thẩm phán không chuyên hoặc thẩm phán, hội thẩm, bồi thẩm.
Còn ở một số nước Đông Âu trước đây và tại Trung Quốc, Việt Nam hiện nay,…. HTND là người được bầu theo nhiệm kỳ và trực tiếp tham gia xét xử. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, HTND phải là công dân Việt Nam, người có kiến thức pháp luật, hiểu biết xã hội, được HĐND địa phương (cấp huyện hoặc cấp tỉnh) bầu ra theo nhiệm kỳ, trực tiếp tham gia xét xử các vụ án, đồng thời là cầu nối giữa tòa án và người dân, tham gia tích cực vào hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Điều này cho thấy, HTND ở Việt Nam không những là người đại diện cho người dân tham gia xét xử các vụ án nhằm giải quyết các vụ án khách quan, hiệu quả, mà còn là một chức danh tư pháp, tham gia giám sát một số hoạt động liên quan đến hoạt động tư pháp.
Cùng với các quy định về quyền, hội thẩm còn phải thực hiện các nhiệm vụ, trách nhiệm kèm theo. HTND không những phải tôn trọng và chịu sự giám sát của nhân dân, không ngừng bồi dưỡng nâng cao kiến thức, làm gương trong việc thực hiện pháp luật, mà còn chịu sự điều chỉnh của luật khi có những sai phạm… Ngoài ra, HTND là người cùng sinh sống, hoạt động với cộng đồng dân cư ở địa phương nên họ còn là người tham gia vào việc giải thích, tuyên truyền về pháp luật, giúp người dân hiểu hơn về hoạt động của tòa án, mặt khác cũng là nhịp cầu giúp tòa án
và những người tiến hành tố tụng hiểu hơn về tâm tư nguyện vọng, hoàn cảnh thực tế của xã hội. Do vậy, trong trường hợp hội thẩm đáp ứng được các yêu cầu đặt ra sẽ phát huy tốt vai trò đại diện của người dân trong xét xử và tố tụng, ngược lại nếu hội thẩm là người không không có trình độ về pháp luật, sự hiểu biết hoặc tắc trách, thiếu công tâm, khi đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử và các hoạt động tố tụng khác.
Mô hình tổ chức nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp, xét xử nói riêng không những phản ánh bản chất của chế độ, nó còn là cơ sở để hoàn thiện và thực thi pháp luật. Đó còn là các căn cứ để mỗi cơ quan, người tiến hành tố tụng, trong đó có HTND xác lập rò vai trò, trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
2.5. Đại diện nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử trong các mô hình tố tụng hình sự
2.5.1. Sự hình thành, phát triển tư tưởng xét xử có đại diện nhân dân
Từ chỗ những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong cộng đồng, xã hội được phân định, giải quyết theo uy tín, vị thế của người hoặc những người năm giữ quyền lực, cho đến sự áp đặt mang tính chủ quan, dần dần người ta thấy cần phải có những quy định thể hiện ý chí chung với cách thức thực hiện chuyên nghiệp. Tuy nhiên, khi đã hình thành nên hệ thống chính quyền với những cá nhân làm công tác xét xử chuyên nghiệp thì vẫn cần có sự tham dự của những người đại diện cho dân chúng nhằm đảm bảo sự công bằng, thuyết phục rộng rãi. Bởi xét cho cùng, việc giải quyết các mẫu thuẫn, vi phạm về hình sự, bên cạnh mục đích trừng trị, trấn áp kẻ phạm tội, còn mang ý nghĩa răn đe, giáo dục trong cộng đồng xã hội.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ đầu đời Hạ (2197–1766 trước Công nguyên)2 được xác định là mở đầu thời kỳ có thật ở Trung Quốc, việc cai trị đã theo chế độ “ngũ thanh thính trị” (lời Mạnh Tử): “Cho phép dân tự do được quyền kêu ca (góp ý về trị quốc đánh trống; góp ý về đạo lý đánh chuông; cần có việc gì làm đánh mò; có chuyện gì lo âu, đánh khánh; có kiện tụng đánh trống nhỏ” [119, tr.35]. Các luật hình sự được làm trong giai đoạn trị vì của Hạng Vũ (nhà Hạ) được cho là
2 Địa bàn nhà Hạ được xác định là từ phía Tây tỉnh Hà Nam và phía Nam tỉnh Sơn Tây, men theo Hoàng Hà đi về phía Đông (gồm các vùng Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây) của Trung Quốc hiện nay. Từ vua Khải (con Vũ) đến Kiệt có 16 vua, trong 13 đời. Theo sách “Trúc thư kỷ niên”, từ Vũ đến Kiệt là 471 năm, còn theo sách “Tam thông lịch” thì chỉ kéo dài 432 năm.
đã có tới 3.000 điều. Cùng với đó, Bộ luật Hamurapi3, xuất hiện tại Babylon cách nay gần 4.000 năm, đã có nhiều nội dung liên quan đến hệ thống tư pháp, việc xét xử và hình phạt. Trong khi đó, cách nay khoảng 2.500 năm, tại Athens, các đạo luật hà khắc của Draco4 được thi hành suốt hai thế kỷ trước khi có bộ luật “công bằng” của Salon5 cùng với nền dân chủ Hy Lạp. Dù đây là những bộ luật do nhà cầm quyền soạn ra, nhưng có thể thấy từ thời Hy Lạp cổ đại đã hiện diện những giá trị liên quan đến bảo vệ quyền con người [119, tr.71].
Đại diện quần chúng tham gia bảo vệ quyền lợi cho người dân cũng đã xuất hiện ở đế chế La Mã từ thế kỷ V trước Công nguyên với tên gọi “quan hộ dân” 6. Theo đó, các quan hộ dân do giới bình dân chọn ra để đại diện và bảo vệ họ trong các vụ kiện. Mô hình này tồn tại cho đến thế kỷ V sau Công nguyên.
Kautilya (còn gọi là Chanakya hay Vishnugupta), một triết gia Ấn Độ (khoảng 350-283 trước Công nguyên) đã viết: “Chỉ có luật pháp mới bảo đảm cuộc sống và phúc lợi cá nhân… Sức mạnh của riêng hình phạt, khi được thực thi một cách công bằng tương ứng với mức độ phạm tội và bất chấp kẻ bị trừng phạt là con vua hoặc kẻ thù, là để bảo vệ xã hội này và xã hội sau”. Còn nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristotle (384-322 trước Công nguyên) thẳng thắn chỉ ra rằng: “Trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các tòa án”. Mặc dù,
3 Bộ luật Hamurapi - văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn, được tạo lập ra khoảng thập niên 1760 trước Công nguyên bởi vị vua thứ sáu của Babylon là Hamurapi (trị vì khoảng 1796 TCN–1750 TCN) ban hành.
4 Draco - nhà lập pháp Hy Lạp cổ đại, sống vào thế kỷ 7 trước Công nguyên. Ông là người đã cho ban hành một bộ luật hợp pháp thành văn đầu tiên tại thành bang Athena, cực kỳ hà khắc được một quan tòa duy nhất thực thi. Từ những việc Dracon làm, sau này tiếng Anh có thêm từ "draconian"
để chỉ sự tàn bạo được sử dụng nhằm mô tả những đạo luật hà khắc.
5 Salon (638-558 trước Công nguyên) là một trong bảy nhà thông thái của Hy Lạp cổ đại. Ông được mệnh danh là “Nhà lập pháp của Athens” vì đã tiến hành nhiều cải cách thể chế và mang lại quyền cho người dân. Salon là người đầu tiên thiết lập cơ quan giám sát việc ban hành luật là Viện nguyên lão gồm 28 người, để xem xét và phê chuẩn các luật do Hội đồng Dân chúng ban hành. Nhiệm vụ chính của Viện nguyên lão là nhằm kiểm soát sự vội vàng thái quá của dân chúng.
6 Sau cuộc nổi dậy vào năm 494 trước Công nguyên, giới bình dân ở La Mã đã lựa chọn những người điều hành gọi là “quan hộ dân” (Tribune plebis) để đại diện cho lợi ích của mình. Ban đầu quan hộ dân chỉ gồm 2 người, nhưng tới năm 450 trước Công nguyên tăng lên 10 người. Các quan hộ dân có ba đặc ân rất quan trọng: 1) bảo vệ những người bình dân trong bất kỳ vụ kiện nào; 2)
phủ quyết bất kỳ đạo luật nào do Viện nguyên lão ban hành; 3) quyền bất khả xâm phạm trong thời gian đương nhiệm. Chức vụ quan hộ dân tồn tại đến thế kỷ V sau Công nguyên, nhưng nó không còn giữ được vai trò và quyền lực như trước đó.
sau đó ông chia hoạt động nhà nước làm ba thành tố: nghị luận, chấp hành và xét xử, nhưng mới chỉ là những gợi mở chung mà chưa đi sâu vào cơ chế tổ chức, hoạt động và quan hệ giữa các thành tố này [61, tr.22].
Được xem là “cha đẻ” của thuyết tam quyền phân lập, John Locke (triết gia người Anh) và Montesquieu (nhà tư tưởng nổi tiếng người Pháp) là những người có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tư tưởng độc lập xét xử. John Locke luôn đề cao vai trò quan trọng của các thẩm phán trong xã hội văn minh và từng tuyên bố về việc xây dựng các đạo luật với quyền khiếu nại đến các thẩm phán độc lập là điều cần thiết. Montesquieu trong cuốn sách “Bàn về tinh thần pháp luật” đã coi độc lập xét xử như một trong những nguyên tắc của xã hội dân chủ, tự do. Ông viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người sợ rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết” [151, tr.137-138].
Trong cuốn sách “Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội” của N.M.Voskresenskaia và N.B Davletshina, các tác giả cho rằng, một trong các quyền tự do quan trọng nhất của công dân trong chế độ dân chủ được thể hiện ở một tòa án công bằng. “Để có những phán quyết không thiên vị, người ta thường mời các hội thẩm tham gia khi đưa ra phán quyết về tội trạng của một người nào đó. Người ta thường nghĩ rằng các công dân bình thường (không phải là các chuyên gia – quan tòa) ít bị mua chuộc hơn, họ ít bị phụ thuộc vào thù lao vật chất hơn. Người Hy Lạp cổ đại dùng rất nhiều hội thẩm; số lượng phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của phiên tòa nhưng bao giờ cũng là số lẻ. Mỗi hội thẩm có hai viên sỏi, một trắng và một đen. Mỗi người bỏ một viên vào hòm; nhiều đen hơn là có tội. Quan tòa sẽ tuyên án phù hợp với quy định của pháp luật” [152, tr.74-75].