truyền thống, nguyên tắc của hầu hết các nền tư pháp trên thế giới. Đại diện nhân dân tham gia xét xử thể hiện vai trò của người dân tham gia vào các công việc quản lý nhà nước, nhà nước tạo điều kiện và có các quy định đảm bảo để người dân thể hiện tiếng nói, thực hiện quyền lực của mình, đồng thời giám sát hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, xét xử có HTND là nguyên tắc hiến định, điều này tạo điều kiện vững chắc cho nhân dân trực tiếp tham gia xét xử, thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phản ánh bản chất dân chủ của nhà nước. Theo đó, HTND trong TTHS là một chức danh tư pháp, được bầu ra để xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của tòa án. HTND sau khi được HĐND bầu ra có quyền tham gia Đoàn hội thẩm, được cấp giấy chứng minh hội thẩm, trang phục và hưởng thù lao khi làm nhiệm vụ hội thẩm. HTND được bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, được tạo điều kiện để làm nhiệm vụ,…
HTND khi tham gia xét xử thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là người đại diện của nhân dân, thể hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, để đảm bảo tính dân chủ, công bằng trong xét xử. Pháp luật quy định địa vị pháp lý của HTND khá rộng, bao gồm cả những nguyên tắc họat động chủ yếu và những quyền, nghĩa vụ cụ thể trong tố tụng và ngoài tố tụng. Tuy vậy, địa vị pháp lý của HTND không phải tham gia vào tất cả các quan hệ tố tụng, mà chỉ tồn tại ở một giai đoạn tố tụng nhất định, đó là các quan hệ phát sinh khi làm nhiệm vụ hội thẩm và do hoạt động xét xử của tòa án mà hội thẩm tham gia. Cụ thể, trong TTHS, địa vị pháp lý của HTND phát sinh và tồn tại kể từ khi được phân công tham gia và trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Khi đó, HTND thực hiện các quyền và nghĩa vụ với tư cách là người tiến hành tố tụng đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Thực tiễn ở Việt Nam, sau khi được chánh án TAND phân công tham gia giải quyết vụ án, HTND thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn như: Trước khi mở phiên tòa có quyền nghiên cứu hồ sơ, đề nghị chánh án có các quyết định có liên quan theo thẩm quyền, tham gia HĐXX và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình mà pháp luật đã quy định. Khi tham gia xét xử vụ án hình sự, HTND có trách nhiệm cùng thẩm phán trong HĐXX giữ vai trò “quan tòa”, căn cứ theo quy định của pháp luật, xem xét kịp thời, đầy đủ hồ sơ vụ án, diễn biến của phiên tòa và có ý kiến nhằm làm sáng tỏ
sự thật của vụ án để đưa ra các quyết định khách quan. Lúc này, HTND phải thực sự công tâm, độc lập, đề cao tính thượng tôn pháp luật để có ý kiến, quan điểm và quyết định sáng suốt, bảo vệ công lý, công bằng. Theo quy định hiện hành thì HTND tham gia xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm (trừ những vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn) với số lượng nhiều hơn so với thẩm phán trong HĐXX (2 HTND và 1 thẩm phán hoặc 3 HTND và 2 thẩm phán). Bên cạnh đó, với nguyên tắc độc lập xét xử, bình đẳng và quyết định theo đa số, HTND ngang quyền với thẩm phán trong HĐXX xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cùng thẩm phán tìm ra sự thật, xác định tội danh, quyết định hình phạt, trách nhiệm dân sự và tham gia tiến hành tố tụng. Nói cách khác, nếu thẩm phán là công chức tư pháp phải đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện làm việc và được hưởng các chế độ theo quy định chặt chẽ, đồng thời là những người xét xử chuyên nghiệp thì hội thẩm lại thể hiện vai trò đại diện cho nhân dân, xét xử không phải là một nghề chuyên nghiệp và được hưởng thù lao cùng các chế độ khác khi làm nhiệm vụ hội thẩm. HTND khi tham gia xét xử vụ án hình sự có trách nhiệm nghiên cứu về vụ án, trực tiếp xét xử từ đầu đến cuối vụ án, biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐXX, đồng thời phải chịu trách nhiệm về các hành vi, quyết định của mình theo quy định của pháp luật. Như vậy, HTND khi làm nhiệm vụ hội thẩm trong TTHS có vị trí chủ thể xét xử, trực tiếp giải quyết các nội dung liên quan đến vụ án hình sự nên có vị trí, nhiệm vụ hết sức quan trọng.
HTND trong TTHS không chỉ là người có kiến thức pháp lý, hiểu biết xã hội, đại diện cho cộng đồng, trực tiếp “cầm cân nảy mực” tại các vụ án hình sự (xét xử sơ thẩm), quyết định những vấn đề liên quan đến quyền của con người cụ thể, mà còn giúp phán quyết của tòa án được công bằng, “thấu tình đạt lý”. Thông qua hoạt động xét xử và tố tụng, HTND còn là người được cộng đồng xã hội ủy nhiệm, mang thực tiễn sinh động của cuộc sống vào phiên tòa, góp phần làm cho phán quyết của tòa án công bằng, thuyết phụ hơn. HTND là nhịp cầu nối giữa tòa án và cộng đồng, góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật. HTND khi tham gia xét xử và tố tụng trong vụ án hình sự phải vận dụng được kinh nghiệm sống, sự am hiểu về kiến thức chuyên
môn, pháp luật và cùng với đó còn thể hiện bản lĩnh, độc lập, vô tư, khách quan, đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với các hành vi của mình.
Là một trong những chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể xét xử của tòa án, HTND trong TTHS khi làm nhiệm vụ hội thẩm có các mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng, như: thẩm phán chủ toạ phiên toà (và thẩm phán khác trong HĐXX), kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, thư ký tòa án; có các mối quan hệ với những người tham gia tố tụng, như: bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, giám định viên, phiên dịch viên,… Ngoài ra, HTND còn có các mối quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, những người thực hiện nhiệm vụ tại phiên tòa, các cơ quan báo chí và người dân.
2.2. Vai trò và các mối quan hệ của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
2.2.1. Vai trò của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Nói đến vai trò là nói về vị trí chức năng, nhiệm vụ, tác dụng của sự vật, sự việc, hiện tượng trong một hoàn cảnh, bối cảnh và mối quan hệ nào đó. Đại diện nhân dân tham gia xét xử vụ án hình sự đã xuất hiện từ lâu và được hình thành trên nền tảng các tư tưởng tiến bộ nhằm đảm đương, tham gia giải quyết những vấn đề được xác định là hết sức hệ trọng của xã hội, đó là góp phần phát huy dân chủ, đảm bảo sự công bằng, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Qua nghiên cứu cho thấy, đến nay ở hầu hết các nước trên thế giới đều quy định và áp dụng thực hiện về chế độ đại diện nhân dân tham gia xét xử các vụ án hình sự. Vai trò đại diện nhân dân tham gia xét xử ở mỗi nước có thể tổ chức theo các mô hình, biểu hiện khác nhau với cách gọi như bồi thẩm viên, hội thẩm, thẩm phán không chuyên,… nhưng về cơ bản đều nhằm giúp cho quá trình xét xử của tòa án không quá cứng nhắc, góp phần để các phán quyết của tòa án được “thấu tình đạt lý”.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Công Trình Nghiên Cứu Về Thực Trạng, Yêu Cầu Và Các Giải Pháp Tăng Cường Vai Trò Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Nhóm Công Trình Nghiên Cứu Về Lý Luận, Lịch Sử Hình Thành, Phát Triển Của Cơ Chế Đại Diện Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Khái Niệm, Đặc Điểm, Địa Vị Pháp Lý Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Thể Chế Hóa Bằng Pháp Luật Các Vấn Đề Về Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Các Yếu Tố Tác Động Đến Việc Thực Hiện Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Quá Trình Phát Triển Của Chế Định Bồi Thẩm Đoàn
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chú trọng xây dựng mô hình TTHS với sự tham gia rộng rãi của người dân. Sự tham gia của HTND vào hoạt động TTHS, dù có tên gọi khác nhau, như “phụ thẩm” hay “hội thẩm”, nhưng vẫn luôn được bảo đảm.
Trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 và các văn bản pháp luật đều quy định về nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia và hội thẩm được xác
định là một trong những chức danh tư pháp, trực tiếp tham gia xét xử tại các phiên tòa hình sự (sơ thẩm) từ đầu đến khi kết thúc. Điều này hoàn toàn khác với cơ chế bồi thẩm đoàn hay thẩm phán không chuyên ở nhiều nước hiện nay. Nếu ở các nước, bồi thẩm đoàn được lựa chọn ngẫu nhiên khi có vụ án cần xét xử và chấm dứt tư cách bồi thẩm viên sau phiên tòa hoặc tại phiên tòa thì ở Việt Nam, HTND được HĐND địa phương bầu ra theo thủ tục, trình tự với sự tham gia của các cơ quan, tổ chức khác nhau và có nhiệm kỳ 5 năm để tham gia xét xử nhiều vụ án khác nhau. Bên cạnh đó, bồi thẩm viên hoặc thẩm phán không chuyên, thẩm phán nghiệp dư cơ bản chỉ tham gia ở những vụ án hình sự nghiêm trọng, phức tạp (Cộng hòa Pháp, Italia,…), thì tại Việt Nam HTND tham gia xét xử sơ thẩm tất cả các vụ án hình sự (trừ trường hợp rút gọn). Đặc biệt, trong khi bồi thẩm, thẩm phán không chuyên, thẩm phán nghiệp dư ở các nước (Mỹ, Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc) chỉ đóng vai trò trong việc xác định bản chất của vụ án hoặc đưa ra phán quyết bị cáo có tội hay không có tội, còn quyết định về hình phạt thuộc về thẩm phán, thì pháp luật TTHS ở Việt Nam lại hoàn toàn khác – đó là hội thẩm với tỷ lệ cao hơn thẩm phán trong HĐXX, trực tiếp tham gia xét xử từ đầu đến khi kết thúc vụ án và cùng thẩm phán quyết định tất cả các nội dung của vụ án theo nguyên tắc độc lập, bình đẳng.
HTND tham gia xét xử án hình sự ở Việt Nam trước hết thể hiện một cách thiết thực về quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước, góp phần kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp, xét xử. Việc hội thẩm trực tiếp tham gia xét xử sẽ đưa tiếng nói từ phía xã hội vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với điều kiện thực tế. Bởi, hội thẩm là những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, khu dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy các vị hội thẩm hiểu rò tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân của vụ án và bị cáo cũng như các vấn đề liên quan.
HTND còn là người đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, có sự am hiểu về một số lĩnh vực như kinh tế, y học, tâm lý xã hội,… giúp cho việc bổ sung kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn cho HĐXX khi xét xử. Thông qua hội thẩm, công tác xét xử của tòa án đến với nhân dân, nhân dân hiểu và thông cảm với công tác của tòa án. Ngược lại, thông qua hội thẩm, tòa án nắm bắt được thực tế, tâm tư tình cảm của người dân, khi đó công tác xét xử của tòa án sẽ sát thực tế, góp phần để người dân nâng cao tinh thần tự giác, bảo vệ pháp luật. Là người trực tiếp tham gia quá trình
giải quyết vụ án, hội thẩm cũng sẽ giúp tòa án tuyên truyền về đường lối, kết quả xét xử, từ đó góp phần phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật của công dân tại nơi hội thẩm làm việc hoặc sinh sống. Ngoài ra, sự tham gia của HTND trong TTHS còn là biểu hiện sinh động của bản chất dân chủ của chế độ, giá trị nhân văn về chính sách pháp luật hình sự, góp phần nâng cao trách nhiệm, năng lực quản lý nhà nước của người dân.
2.2.2. Các mối quan hệ của hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Quan hệ với các cơ quan và người tiến hành tố tụng
Với tư cách người tiến hành tố tụng, hội thẩm có quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) và những người tiến hành tố tụng (thẩm phán, thư ký tòa án, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm tra viên,…). Đặc biệt, quan hệ của HTND trong TTHS mang tính trực tiếp, có ý nghĩa sâu sắc là với thẩm phán – chủ tọa phiên tòa, hội thẩm khác trong HĐXX, đại diện viện kiểm sát, thư ký phiên tòa trong vụ án.
Đối với thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Là thành viên HĐXX, sau khi được phân công tham gia xét xử, hội thẩm liên hệ với thẩm phán để nghiên cứu hồ sơ vụ án, khi đó thẩm phán phải tạo điều kiện tốt nhất để hội thẩm nắm bắt các thông tin, nội dung vụ án. Trước khi mở phiên tòa, hội thẩm có thể đề nghị thẩm phán – chủ tọa phiên tòa tổ chức hội ý các thành viên HĐXX để thống nhất, phối hợp trong quá trình xét xử vụ án, như: vị trí ngồi, kế hoạch xét xử, trình tự, nội dung xét hỏi,…; trao đổi với thẩm phán về những vấn đề còn vướng mắc, thiếu sót trong hồ sơ, thủ tục; giải quyết các yêu cầu, khiếu nại, kiến nghị của những người tham gia tố tụng; quyết định việc triệu tập thêm người làm chứng, mời giám định, phiên dịch…. Hội thẩm là người độc lập trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, đánh giá tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, xem xét và quyết định theo quan điểm của mình mà không thể bị can thiệp, tác động từ thẩm phán trong quá trình xét xử. Ở giai đoạn xét hỏi, thẩm phán và HTND cùng tiến hành xét hỏi, xem xét chứng cứ, các tài liệu liên quan nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Trong quá trình nghị án, hội thẩm đưa ra ý kiến của mình, thẩm phán phát biểu sau cùng; các vấn đề của vụ án được biểu quyết theo đa số, ý kiến thiểu số được bảo lưu.
Đối với hội thẩm khác: Trong HĐXX mỗi vụ án hình sự sơ thẩm sẽ gồm hai (hoặc ba) hội thẩm, do đó mối quan hệ giữa các hội thẩm khi tham gia xét xử là hết
sức cần thiết. Các hội thẩm lúc này cần giữ vững quan điểm, bản lĩnh của mình, tránh bị phụ thuộc trong việc phân tích, đánh giá và thể hiện ý kiến riêng, nhưng rất cần có sự chia sẻ, phối hợp, hỗ trợ với nhau về thông tin, kỹ năng xét xử để cùng giải quyết vụ án kịp thời, khách quan.
Đối với thư ký tòa án (thư ký phiên tòa): Đây là cán bộ của tòa án được phân công tham gia tiến hành tố tụng vụ án, có nhiệm vụ giúp thẩm phán chủ tọa và HĐXX chuẩn bị xét xử và ghi biên bản phiên tòa. Thông thường hội thẩm sau khi được phân công xét xử vụ án sẽ liên hệ với thư ký phiên tòa để nắm bắt các thông tin liên quan đến kế hoạch xét xử, nghiên cứu hồ sơ vụ án. Thư ký phải tạo điều kiện để HTND thực hiện nhiệm vụ, phải báo cáo với HĐXX về danh sách những người do tòa triệu tập và ghi chép đầy đủ, chính xác diễn biến của phiên tòa, trong đó có những câu hỏi, ý kiến của HTND trong quá trình xét xử.
Đối với kiểm sát viên: Tại mỗi phiên tòa hình sự, kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, tiến hành công bố cáo trạng, kiểm tra việc thụ lý, giải quyết vụ án, trực tiếp tham gia xét hỏi và tranh tụng. Kiểm sát viên căn cứ theo quy định của pháp luật và thực tế diễn biến phiên tòa có quyền đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, việc thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, đưa ra các căn cứ buộc tội bị cáo và việc giải quyết vụ án theo quy định. HĐXX, trong đó có HTND, phải tuân thủ quy định trong quá trình xét xử và xem xét, giải quyết các đề xuất, kiến nghị của kiểm sát viên, [125].
Quan hệ với những người tham gia tố tụng trong vụ án
Mối quan hệ này giúp hội thẩm có những thông tin, tài liệu, chứng cứ để phục vụ cho việc xét xử được thuận lợi, mặt khác còn làm cho các đương sự, những người tham gia tố tụng cảm nhận được sự yên tâm, tin tưởng về sự công tâm, tính nghiêm minh, khách quan của tòa án. Thông qua đây, HTND góp phần “truyền tải” pháp luật, hoạt động xét xử đến cộng đồng. Ở đó, hội thẩm phải xác định rò về vai trò, vị trí của mình cũng như tư cách, công việc của mỗi cá nhân này để có quan hệ, cách ứng xử phù hợp.
Đối với bị cáo: Theo quy định của pháp luật, trước khi phiên tòa diễn ra, bị cáo (người giám hộ) có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, trong đó có
HTND khi có lý do chính đáng; trong quá trình xét xử có quyền tranh luận, bào chữa, cung cấp chứng cứ, nói lời sau cùng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án. HTND với tư cách thành viên HĐXX có quyền công bố lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố trong một số trường hợp theo quy định; xét hỏi bị cáo, xem xét các vấn đề liên quan đến vụ án (các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ), nghị án và phán quyết về trách nhiệm hình sự, hình phạt, trách nhiệm dân sự,… đối với bị cáo. Thậm chí, trong một số trường hợp cần thiết, HTND còn trao đổi với các thành viên trong HĐXX để có thể tách các bị cáo hoặc cùng với HĐXX để xét hỏi ai trước, ai sau, làm sáng tỏ vấn đề nào, tránh trường hợp hỏi lại, hỏi vấn đề đã rò hoặc không liên quan đến vụ án. Trong mối quan hệ này, HTND phải vô tư, khách quan, có trách nhiệm để hiểu hơn về bị cáo, bản chất vụ việc. Hội thẩm cũng cần nắm vững các quy định, hồ sơ vụ án, điều kiện hoàn cảnh của bị cáo để đặt ra những câu hỏi, vấn đề phù hợp nhằm làm rò sự thật, đưa ra quyết định xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan sai người vô tội và gây tổn hại cho bị cáo.
Đối với người (tổ chức) bị hại: Pháp luật quy định người bị hại (người giám hộ, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại) khi có lý do chính đáng có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, trong đó có HTND; có quyền tranh luận, cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu, quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án có liên quan. HTND với tư cách thành viên HĐXX cần xem xét lời khai, các yêu cầu và những gì liên quan đến bị hại một cách thấu đáo. Cần tìm hiểu sự việc khách quan, trong đó có những thiệt hại về vật chất, tinh thần của bị hại; có các câu hỏi, giải thích phù hợp làm dịu căng thẳng của phiên tòa và đưa ra ý kiến, quyết định công tâm.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự: Do trong vụ án hình sự, có những vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, do đó, HTND cùng với HĐXX có trách nhiệm làm rò những gì liên quan đến họ để giải quyết đúng pháp luật và thực tế.
Đối với người bào chữa cho bị cáo; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,…: Đây là những người trợ giúp pháp lý cho các đương sự nên họ hiểu quy định của pháp luật và tham gia tố tụng nhằm bảo vệ cho thân chủ của mình nên họ nghiên cứu rất kỹ hồ sơ vụ án,
đồng thời sẽ đưa ra những chứng cứ, quan điểm có lợi cho thân chủ của mình. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tố tụng cũng có thể họ còn cung cấp thêm những vấn đề mới, bổ sung vào hồ sơ vụ án. Do đó, HTND cần chú ý lắng nghe, phân tích để thấy rò hơn về sự đúng, sai, cần xem xét nhằm làm sáng tỏ sự thật, hành vi, hậu quả mà bị cáo gây ra cũng như sự thiệt hại để có quan điểm, quyết định trong quá trình xét xử, nghị án.
Đối với người làm chứng: Cùng với các chứng cứ, vật chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, tài liệu khác,… thì lời khai của người làm chứng trong hồ sơ vụ án và tại tòa hết sức quan trọng. Họ chính là người cung cấp thông tin, chứng cứ và làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến vụ án. Do đó, HTND cùng HĐXX cần giải thích về quyền, nghĩa vụ của họ, đặt câu hỏi phù hợp để họ bổ sung những gì cần làm rò. Bên cạnh đó, cần kiểm tra, đối chiếu giữa các chứng cứ, tài liệu với các lời khai để củng cố hồ sơ, quan điểm. HĐXX và HTND cần có cách ứng xử phù hợp để người làm chứng thông tin khách quan, sự thật và được an toàn.
Đối với người giám định, người phiên dịch: Họ là những người tham gia tố tụng trên cơ sở chuyên môn của họ để giúp cho phiên tòa được diễn ra đúng quy định, làm rò sự thật khách quan. HĐXX và HTND cần xem xét các nội dung giám định một cách đầy đủ, khách quan để có đánh giá đúng; trường hợp cần thiết, cùng với kết luận giám định còn phải mời người giám định có mặt tại tòa để làm rò hoặc yêu cầu giám định lại. Đối với người phiên dịch, có thể phiên dịch tiếng nước ngoài hoặc tiếng dân tộc, do đó cần lựa chọn người có khả năng phiên dịch phù hợp và nên có sự hiểu biết xã hội, pháp luật. Lúc này, HTND cần lắng nghe, khi cần phải hỏi lại để hiểu đúng nội dung, yêu cầu, thông tin từ người giám định, phiên dịch chuyển tải, cung cấp.
Quan hệ với Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân, Đoàn hội thẩm
Mặc dù y ban MTTQ Việt Nam và HĐND địa phương giữ vai trò quan trọng đối với việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm HTND, nhưng các quy định hiện hành và thực tế cho thấy mối quan hệ giữa HTND với hai tổ chức này không mang tính thường xuyên và ít chịu ràng buộc, chi phối trực tiếp, mà thường thông qua TAND và Đoàn hội thẩm. Chánh án TAND nơi HTND được bầu không những là người đề