Nhóm 1: (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn và các tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn; Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày; Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu); Các khoản nợ được quy định vao nợ nhóm 2 theo quy định.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định; Các khoản nợ được miễn hoặc được giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần hai; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định;
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 3 trở lên, kể cả chưa quá hạn hoặc đã quá hạn; Các khoản nợ khoanh , nợ chờ xử lý; Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định.
(2) Xếp hạng rủi ro tín dụng: Ngân hàng cần thiết lập một hệ thống xếp hạng rủi ro đối với các danh mục tín dụng của mình. Hệ thống xếp hạng giúp ngân hàng nhận định chung về danh mục cho vay, phát hiện sớm các khoản cho vay có khả năng gây tổn thất cho ngân hàng, và là cơ sở xác định mức trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Các mức rủi ro có thể khác nhau giữa các ngân hàng.
(3) Xếp hạng chất lưọng tài sản đảm bảo: Với vai trò là nguồn thứ hai, cùng với việc xác định cấp độ rủi ro của từng khách hàng, ngân hàng đánh giá chất lượng của các tài sản đảm bảo khoản vay để có được cái nhìn hoàn chỉnh về khoản vay và các quyết định sau này.
(4) Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng: Theo phương pháp truyền thống rủi ro tín dụng được đo lường qua các chỉ tiêu: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ; Nợ xâú và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Trong đó, nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hay toàn bộ nợ gốc hoặc lãi đã quá hạn; Nợ xấu là khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 theo quy định thông tư 02.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Quảng Ninh - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Rủi Ro Và Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại
- Ảnh Hưởng Đến Doanh Nghiệp Và Người Gửi Tiền
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Trong Ngân Hàng Thương Mại
- Nhân Tố Từ Môi Trường Chính Trị, Văn Hóa - Xã Hội, Tự Nhiên
- Thực Trạng Rủi Ro Tín Dụng Và Tại Ngân Hàng Tmcp Quân Đội - Chi Nhánh Quảng Ninh
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Số dư nợ quá hạn /Tổng dư nợ cho vay)*100%
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Tỷ lệ “Nợ quá hạn” phản ánh số dư gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi được. Nợ quá hạn cho biết, cứ 100 đồng dư nợ hiện hành có bao nhiêu đồng đã quá hạn, đây là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp; ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao.
Nợ quá hạn (non performing loan - NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảmbảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thươngmại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạnthành các nhóm sau:
Nợ quá hạn dưới 90 ngày - Nợ cần chú ý; Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày - Nợ dưới tiêu chuẩn; Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày - Nợ nghi ngờ; Nợ quá hạn trên 361 ngày - Nợ có khả năng mất vốn.
Tỷ lệ “ Nợ quá hạn” chỉ phản ánh những số dư thực sự đã quá hạn, mà không phản ánh toàn bộ quy mô dư nợ có nguy cơ quá hạn. Để khắc phục nhược điểm này, người ta sử dụng chỉ tiêu “tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn” như sau:
Tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn
Tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn = (Tổng dư nợ có nợ quá hạn/ Tổng dư nợ) * 100%
Do chỉ tiêu “ Tổng dư nợ có nợ quá hạn” bao gồm toàn bộ dư nợ của một khác hàng (kể cả đến hạn và chưa đến hạn) kể từ khi xuất hiện món nợ quá hạn đầu tiên, nên nó phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro (chất lượng) tín dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu “Khách hàng có nợ quá hạn”
Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn = (Tổng số khách hàng quá hạn/Tổng số khách hàng có dư nợ) * 100%
Chỉ tiêu này cho biết, cứ 100 khách hàng vay vốn, thì có bao nhiêu khác đã quá hạn. Nếu tỷ lệ này cao, phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng là không hiệu quả. Ngoài ra, nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu “Nợ quá hạn”, cho biết nợ quá hạn tập trung vào những khách hàng lớn; ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu “ Nợ quá hạn”, thì nợ quá hạn tập trung vào những khách hàng nhỏ.
Chỉ tiêu “Cơ cấu nợ quá hạn”
Tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn = (Nợ quá hạn ngắn hạn/Nợ ngắn hạn)*100% Tỷ lệ nợ dài hạn quá hạn = (Nợ quá hạn dài hạn/ Nợ dài hạn)*100%
Khả năng thu hồi nợ quá hạn
Để đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng, người ta còn phân loại nợ quá hạn theo hai tiêu chí.
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi = (Nợ quá hạn có khả năng thu hồi/Nợ quá hạn) *100%
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi = (Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi/Nợ quá hạn)*100%
Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay
Thông thường về thời gian nợ xấu là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày. Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN, ngày 21/1/2013 Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nợ xấu của tổ chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau: Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; Nhóm nợ nghi ngờ: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khảnăng tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thờihạn đã cơ cấu lại; Nhóm nợ có khả năng mất vốn: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này không được vượt quá 3%.
Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số rủi ro tín dụng = (Tổng dư nợ cho vay/ Tổng tài sản có)*100%
Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 3 nhóm: Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng; Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng; Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mạng
lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ trích lập DPRR tín dụng = (DPRR tín dụng trích lập/Dư nợ bình quân)
Tùy theo cấp độ rủi ro mà tổ chức tín dụng phải trích lập DPRR từ 0 đến 100% giá trị của từng khoản cho vay (sau khi trừ giá trị tài sản đảm bảo đã được định giá lại). Như vậy, nếu một ngân hàng có danh mục cho vay càng rủi ro thì tỷ lệ trích lập dự phòng sẽ càng cao. Thông thường, tỷ lệ này dao động trong khoảng 0 đến 5%.
Tỷ lệ tập trung danh mục cho vay
Danh mục cho vay của ngân hàng là một tập hợp các loại cho vay thuộc sở hữu của ngân hàng, được sắp xếp theo các tiêu thức khác nhau, được cơ cấu theo một tỷ lệ nhất định, phục vụ cho các mục đích quản trị của ngân hàng.
Danh mục cho vay là công cụ để nhà quản trị định hướng cho hoạt động cấp tín dụng, nhằm đảm bảo tính lành mạnh, mức độ chuyên môn hóa, tính đa dạng của tài sản cho vay, giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro ở mức độ tối đa và đạt được lợi nhuận như mong muốn. Với ý nghĩa đó, danh mục cho vay tồn tại dưới dạng kế hoạch (định hướng thực hiện) và được quản lý thực hiện trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng. Thông qua thiết kế danh mục cho vay kế hoạch, các nhà quản trị đưa ra con số dự kiến tỷ trọng dư nợ của từng ngành kinh tế/ khu vực địa lý ... chiếm trong tổng thể danh mục. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho vay của ngân hàng. Một danh mục cho vay kế hoạch thể hiện sự đa dạng phù hợp với thực lực, tiềm năng, tuân thủ quy định của luật pháp và định hướng phát triển của ngân hàng là tiền đề quan trọng để ngân hàng có thể đạt mục tiêu, khẳng định vị thế của mình trên thị trường kinh doanh tiền tệ. Báo cáo thực hiện danh mục cho vay là công cụ để nhà quản trị nhìn nhận, phân tích các khoản cho vay đã thực hiện dưới các góc nhìn khác nhau, tạo điều kiện để đánh giá tổng thể chất lượng của toàn danh mục, từ đó mà có các biện pháp điều chỉnh hợp lý theo diễn biến thị trường nhằm đạt mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng.
Danh mục cho vay theo thời hạn: Danh mục cho vay của ngân hàng có thể được xây dựng theo tiêu chí thời hạn, trong đó tỷ trọng các loại cho vay ngắn hạn; trung hạn và dài hạn được thiết kế hợp lý, thể hiện mối quan hệ giữa cơ cấu thời hạn của sử dụng vốn và cơ cấu thời hạn của nguồn vốn, nhằm hạn chế các loại rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, đảm bảo tuân thủ quy định của luật pháp.
Danh mục cho vay theo ngành kinh tế: Danh mục cho vay theo tiêu thức này có ý nghĩa rất lớn đối với các ngân hàng thương mại, kể cả trong khâu hoạch định kế hoạch cũng như trong tổ chức thực hiện. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế hình thành một định hướng cần thiết cho quá trình đầu tư tín dụng của ngân hàng. Những ngành nào cần tập trung, mở rộng, những ngành nào cần tiết giảm v.v... sẽ được thể hiện thông qua tỷ trọng xác định của từng ngành trong tổng thể dư nợ của danh mục. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế bộc lộ rõ quan điểm của ngân hàng: tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên chuyên môn hóa hay là đa dạng hóa cho vay. Đứng trên quan điểm hạn chế rủi ro thì danh mục cho vay theo ngành càng đa dạng càng tốt. Tuy nhiên điều này đôi khi đi ngược lại chủ trương chuyên môn hóa để chiếm lĩnh thị trường của một số ngân hàng.
Danh mục cho vay theo khu vực địa lý: Việc xây dựng tỷ trọng khoản mục cho vay theo khu vực địa lý thể hiện quan điểm của ngân hàng trong việc hình thành thị trường mục tiêu, phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất, mạng lưới hoạt động cũng như năng lực kiểm soát của đội ngũ nhân viên cho vay. Trong quá trình giám sát danh mục cho vay theo khu vực địa lý, ngân hàng sẽ đánh giá hiệu quả đầu tư của từng khu vực trong tương quan so sánh với các khu vực khác, từ đó sẽ đưa ra những điều chỉnh thích hợp, đảm bảo mục tiêu đã hoạch định.
Danh mục cho vay theo đối tượng khách hàng: Mỗi một đối tượng khách hàng sẽ có những đặc điểm khác nhau (về cơ cấu tổ chức, về năng lực chịu trách nhiệm trước pháp luật v.v...) vì vậy để định hướng cho việc đầu tư an toàn và hiệu quả, các ngân hàng luôn có sự phân chia hợp lý tỷ trọng các khoản mục cho vay theo đối tượng khách hàng, đảm bảo sự an toàn cần thiết ở góc độ toàn danh mục.
Danh mục cho vay theo loại tiền tệ: Cũng giống như danh mục cho vay theo ngành kinh tế, danh mục cho vay theo loại tiền tệ không những thể hiện quan điểm,
định hướng của ngân hàng trong việc tìm kiếm thị trường mục tiêu trong / ngoài nước, mà còn giúp ngân hàng đánh giá mức độ rủi ro tiềm ẩn khi có sự biến động của đồng ngoại tệ so với nội tệ.
Danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư: Danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư thường được phân chia thành hai lĩnh vực lớn là lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất. Trong đó mỗi lĩnh vực lại chia nhỏ thành nhiều loại. Chẳng hạn như trong sản xuất thì có ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại v.v ... trong phi sản xuất thì có cho vay kinh doanh chứng khoán, 8 kinh doanh địa ốc, cho vay tiêu dùng v.v... Đây là cách thiết kế danh mục nhằm định hướng đầu tư cho vay theo những lĩnh vực lớn, phù hợp sự phát triển trong các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế, đảm bảo tuân thủ quy định của luật pháp.
1.2.3.4. Giám sát rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng thương mại
Giám sát rủi ro bao gồm các công việc như: giám sát thực tiễn sản xuất kinh doanh cuả khách hàng và việc thực hiện các điều khoản đã có trong hợp đồng tín dụng ký với khách hàng. Việc giám sát nhằm phát hiện ra các đấu hiệu rủi ro thực tiễn, những biến động xấu trong sản xuất kinh doanh của khách hàng để từ đó xác định rủi ro tiềm tàng và có các biện pháp sử lý kịp thời. Phương pháp giám sát rất đa dạng, sau đây là một số phương pháp thường dùng trong ngân hàng.
Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng: Sự thay đổi số dư, số phát sinh trong tài khoản tiền gửi và tiền vay của khách hàng phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm, lưu chuyển tiền tệ, sử dụng vốn vay và trả nợ. Sự biến đổi bất thường trong tài khoản phản ánh những khó khăn trong quản trị tài chính của khách hàng, dẫn tới khó khăn trong chi trả của khách hàng.
Phân tích báo cáo tài chính định kỳ: Kết quả phân tích sẽ cho thấy những biểu hiện làm giảm khả năng hoàn trả nợ hay biểu hiện vi phạm hợp đồng cuat khách hàng.
Kiểm tra các bảo đảm tiền vay: Thông qua các báo cáo thường kỳ về tình trạng tài sản đảm bảo hoặc kiểm tra trực tiếp tại chỗ của khách hàng. Đối với tài sản thế chấp ngân hàng còn cần xem xét việc sử dụng tài sản có hợp lý đúng như cam kết
hay không. Còn với đảm bảo bằng bảo lãnh cần xem xét nội dung giám sát người bảo lãnh cũng như đối với khách hàng đi vay.
Giám sát những thông tin khác: Ngoài ra cần kiểm tra địa điểm cư trú, nơi sản xuất kinh doanh, thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng.
1.2.3.5. Biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại
Các nguyên tắc chung của ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel trong Quản trị rủi ro tín dụng
Hiệp định Basel II ra đời thay thế cho Hiệp định vốn ngân hàng quốc tế (Basel
I) được thực hiện từ năm 1988 (thường được biết đến với tỷ số Cook) do Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel xây dựng nhằm hỗ trợ các ngân hàng quản lý rủi ro hiệu quả hơn. Các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng của hiệp định bao gồm:
Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:
Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét Chiến lược rủi ro tín dụng theo định kỳ, xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ khả năng sinh lời.
Nguyên tắc 2: Thực hiện Chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các chính sách tín dụng. Xây dựng các quy trình thủ tục cho các khoản vay riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác định, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm và các hoạt động. Đảm bảo rằng các sản phẩm và hoạt động mới đều trải qua đầy đủ các thủ tục, các quy trình kiểm soát thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.
Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý:
Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: Những hiểu biết về người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng, nguồn thanh toán.
Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho: từng khách hàng riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới nhau, trong và ngoài bảng cân đối kế toán.