Cơ Sở Lý Luận Về Rủi Ro Và Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Rủi ro tín dụng


1.1.1. Khái niệm


Một số khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng như sau:


Theo Thomas P.Fitch: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động cho vay ngân hàng.

Theo Hennie van Greuning - Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của Ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra các nội dung cơ bản về rủi ro tín dụng như sau: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.

Căn cứ Thông tư 02/2013/TT-NHNN, ngày 21/1/2013 Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Quảng Ninh - 3

Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính,


bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại rủi ro sau:

Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.

Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.

Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.

Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại: rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.

Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.


1.1.2. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng


1.1.2.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng


Một thực tế đáng buồn là có rất nhiều khách hàng có phương án kinh doanh rất khả thi, lĩnh vực kinh doanh có rất nhiều thuận lợi, tuy nhiên khi bắt đầu có đủ các điều kiện về vốn để thực hiện phương án thì do năng lực quản trị, kinh nghiệm điều hành còn hạn chế, không đủ khả năng ứng phó trước những biến động thị trường dẫn đến họat động kinh doanh không đạt hiệu quả như kế họach đã đề ra.

Sử dụng vốn vay sai mục đích: Khách hàng cố tình lập các chứng từ rút vốn vay giả mạo mà do nhiều lí do ngân hàng không phát hiện được, để lấy vốn vay sử dụng khác với mục đích đã trình bày trong phương án vay vốn. Việc sử dụng vốn vay sai mục đích trong nhiều trường hợp là do người vay sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm với kỳ vọng sẽ mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiên kết quả lại không như ý muốn. Cũng có trường hợp khách hàng đã không có khả năng trả nợ vay tại ngân hàng khác, và cố tình tìm mọi cách vay vốn tại ngân hàng này và mang đi đảo nợ là nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có nguồn trả nợ để thanh toán nợ đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng.

Rủi ro tín dụng xảy ra xuất phát từ trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo ngân hàng, chây ì không chịu trả nợ. Rất nhiều người vay tiền ngân hàng để tham gia vào những dự án mạo hiểm mong kiếm được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai lệch, mua chuộc cán bộ ngân hàng… Bên cạnh đó lại có những khách hàng không tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra trong kinh doanh, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh.

Nhiều doanh nghiệp do thiếu năng lực về khả năng quản lý tài chính lại không có tài sản thế chấp hợp lệ do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn cho việc vay vốn ngân hàng. Họ đã lập các giấy tờ, số liệu giả hòng qua mắt ngân hàng để được ngân hàng cấp tín dụng. Đối với những trường hợp này nếu ngân hàng không phát hiện thì khả năng xảy ra rủi ro tín dụng là rất lớn. Người vay lợi dụng ngân hàng không thể kiểm soát hết được hoạt động kinh doanh của mình nên đã sử dụng


vốn vay sai mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Như vậy coi như toàn bộ giá trị thẩm định trước khi tiến hành cho vay của ngân hàng trở thành vô nghĩa và rủi ro tín dụng xảy ra bất cứ lúc nào.

Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Đây chính là biểu hịên của rủi ro đạo đức, chúng ta cũng có thể thấy rủi ro đạo đức kéo theo rủi ro tín dụng.

1.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng


Chính sách và quy trình cho vay lỏng lẻo: Định hướng tín dụng chưa đạt được tầm chiến lược, chưa triệt để nguyên tắc của thị trường là lợi nhuận và mức rủi ro có thể chấp nhận đươc, bị cuốn theo hội chứng kinh tế, theo phong trào, theo khẩu hiệu phát triển kinh tế, tìm mọi cách cạnh tranh, giành giật thị trường ở các ngành hàng, các nhóm khách hàng mà không hề nhận thấy rằng ngân hàng mình không có sở trường trong lĩnh vực này hoặc chưa chuẩn bị đủ tiềm lực đối với ngành hàng này.

Kỹ thuật cấp tín dụng còn nghèo nàn, chưa hiện đại và đa dạng như việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp. Công tác quản lý rủi ro tín dụng và kiểm sóat sau cho vay chưa được chú trọng, chỉ mang tính hình thức.

Thiếu thông tin: Ngân hàng chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu về khách hàng một cách đầy đủ, chưa có các kênh kiểm tra chéo thông tin. Việc phân tích tín dụng và quyết định cho vay hầu như chỉ dựa trên các thông tin từ phía khách hàng cung cấp, các mối quan hệ cá nhân.

Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều đối tượng, nhiều vùng lãnh thổ, nhiều quốc gia. Do vậy để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng đang sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và


toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để đánh giá khách hàng thì rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên không tránh khỏi sự cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho những khách hàng không đủ tiêu chuẩn được vay tiền của ngân hàng, mang lại rủi ro lớn cho ngân hàng thậm chí họ còn rút ruôt ngân hàng. Như vậy chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm cả trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó cũng có khía cạnh ngân hàng còn thể hiện sự yếu kém trong khâu quản lý cán bộ ngân hàng, cũng gây ra rủi ro tín dụng. Ngân hàng nào buông lỏng công tác quản lý rủi ro tín dụng chắc chắn ngân hàng đó luôn phải đối phó với rủi ro tín dụng.

Các quy định về hạn chế tín dụng cho vay một khách hàng không được tôn trọng. Theo cơ chế hiện hành, Ngân hàng thương mại chỉ cho doanh nghiệp vay với tổng mức các hợp đồng tín dụng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng mình nhưng nhiều ngân hàng lại vi phạm điều đó. Việc chấp hành quy chế chuyển nợ quá hạn còn chưa được thực hiện đúng với quy định của Ngân hàng Nhà nước. Một số ngân hàng, vì sợ tỷ lệ nợ quá hạn cao nên nhiều khoản vay đáng lẽ phải chuyển sang nợ quá hạn nhưng ngân hàng lại không chuyển mà cứ gia hạn nợ nhiều lần, đảo nợ tức là cho vay nợ mới để thu nợ cũ. Điều này thật sự rất nguy hiểm về mặt kinh doanh tiền tệ. Vì vậy trên thực tế con số nợ quá hạn chiếm tỷ lệ lớn nhưng lại phản ánh trên sổ sách với tỷ lệ thấp hơn.

Bên cạnh đó, chúng ta không thể phủ nhận thông tin tín dụng là yếu tố không thể thiếu và rất quan trọng trong quản lý tín dụng. Tuy trên thị trường luôn tồn tại những thông tin không cân xứng nhưng việc với tìm kiếm thông tin về khách hàng ngân hàng sẽ có một nguồn tham khảo quý giá để đề ra những biện pháp đúng đắn về việc đầu tư tín dụng hoặc biện pháp cần thiết để theo dõi, quản lý những khách hàng tiềm năng. Trong nhiều trường hợp không điều tra kỹ càng nên thông tin sai lệch hoặc không đầy đủ. Hiện tượng một khách hàng vay nhiều ngân hàng là khá phổ biến, nhưng các ngân hàng do không có thông tin đầy đủ nên không biết được điều đó, chỉ đến khi vỡ lở, khàch hàng mất khả năng thanh toán thì các ngân hàng mới nhận ra, và lúc đó đã quá muộn. Liên hệ thực tế ở một số tổ chức tín dụng hiện nay công tác cung cấp thông tin tín dụng còn nhiều hạn chế, trong khi nghiệp vụ tín


dụng đòi hỏi trình độ quản lý kinh doanh ngày càng cao, môi trường cạnh tranh ngày càng phức tạp gay gắt. Thông tin đầy đủ, kịp thời rút ngắn thời gian thẩm định cũng là yếu tố góp phần thắng lợi trong cạnh tranh.

Sau cùng công tác kiểm soát nội bộ cũng góp một phần quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng. Lơi là công tác này đồng nghĩa với rủi ro tín dụng xảy ra với quy mô lớn. Kiểm soát nội bộ là thông qua công tác này giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng cơ chế, quy chế và đúng pháp luật. Việc kiểm soát nội bộ không được thực hiện hoặc không thường xuyên kịp thời thì những sai sót lệch lạc trong hoạt động tín dụng sẽ không được phát hiện kịp thời, do đó rủi ro tín dụng sẽ xảy ra.

Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên việc cạnh tranh giữa các ngân hàng nhằm thúc đẩy sự phát triển nghiệp vụ ngân hàng là một yếu tố khách quan. Để đạt được ưu thế trong cạnh tranh nhiều ngân hàng hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng nhằm lôi kéo khách hàng mà không quan tâm đến hiệu quả của đồng vốn cho vay. Đây là kiểu cạnh tranh không lành mạnh, nó tăng thêm rủi ro trong hoạt động tín dụng. Thậm chí nhiều ngân hàng chạy theo số lượng cho vay càng nhiều càng tốt, chú trọng đến số lượng chứ chưa chú trọng đế chất lượng tín dụng. Mặt khác, có một điểm mà hiện tại các ngân hàng thương mại đang gặp phải là hiện tượng ứ đọng vốn trong khi lại không xét duyệt cho vay được, hay cũng vì nguyên nhân đó mà nhiều cán bộ tín dụng cho vay trong khi chưa có thời gian tìm hiểu khách hàng.

1.1.2.3. Nguyên nhân khách quan


Những nguyên nhân này tác động đến người vay tiền (khách hàng), làm họ khó khăn trong kinh doanh và mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: thiên tai như là bão lụt, hạn hán, động đất, hoả hoạn… các hoạt động ăn cắp, lừa đảo, cướp giật… gây mất mát về tài sản của ngân hàng. Đối với những rủi ro này, ngân hàng phòng ngừa bằng cách mua bảo hiểm tài sản, tăng cường bảo vệ trực tiếp, giáo dục ý thức cho cán bộ nhân viên ngân hàng. Ngoài ra cũng phải kể đến những nguyên nhân xuất phát từ sự thay đổi ở tầm vĩ mô, nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng cũng như khách hàng. Có thể nói những nguyên nhân này thường xuyên xảy ra, cả khách hàng, ngân hàng chỉ có thể dự báo để phòng ngừa nhằm giảm thiểu


thiệt hại, chứ không thể loại trừ được chúng. Còn trong trường hợp ngân hàng, khách hàng không có sự chuẩn bị trước, thiệt hại xảy ra là điều tất yếu, tất nhiên là bao gồm cả rủi ro tín dụng. Một ví dụ điển hình như: một ngân hàng nông nghiệp cho người nông dân vay vốn để phát triển đàn gia cầm, nhưng vào thời gian đó ở địa phương lại phát dịch cúm gia cầm, người nông dân phải tiêu huỷ cả đàn gia cầm. Như vậy người nông dân không thể thanh toán nợ cho ngân hàng đúng hạn, gây nên rủi ro tín dụng. Rõ ràng những nguyên nhân khách quan xuất phát từ môi trường bên ngoài thường ảnh hưởng trực tiếp đến người vay. Tuy nhiên cũng có những người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn, và vẫn có thể hoàn trả được cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.

Thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, dịch bệnh: Đây là những rủi ro mà cả khách hàng lẫn ngân hàng đều không lường trước đối với khoản tín dụng của mình, khách hàng gặp khó khăn ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngân hàng. Đối với khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh thì cũng phải có thời gian để ổn định lại quá trình kinh doanh thì mới có khả năng trả nợ ngân hàng, còn với các khách hàng có tiềm lực yếu thì khoản tín dụng có khả năng rất cao lâm vào tình trạng nợ xấu. Mặc dù lọai rủi ro này có thể được hạn chế bằng cách mua bảo hiểm, tuy nhiên khi lọai rủi ro này xảy ra, khách hàng và cả ngân hàng cũng phải mất nhiều thời gian để lấy được khoản tiền bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay ngân hàng.

1.1.2.4. Các nguyên nhân khác


Nguyên nhân từ môi trường trong nước


Môi trường kinh tế: môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế rơi và tình trạng mất ổn định, suy thoái, làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua giảm sút, hàng hoá ứ đọng. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nên nó có tác


động rất lớn đến hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng phải tuân theo nguyên tắc thị trường, đi vay để cho vay, lãi suất phải bảo đảm bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi. Tín dụng phải đảm bảo ba nguyên tắc: có mục đích, có bảo đảm và có hoàn trả, nhưng môi trường của nền kinh tế rất nhiều tàn tích của bao cấp, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.

Môi trường chính trị: Môi trường chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu các doanh nghiệp luôn phải đặt trong tình trạng chiến tranh cấm vận kinh tế, chính trị bất ổn, tệ nạn xã hội tràn lan… đều là những nguyên nhân gián tiếp của rủi ro tín dụng.

Môi trường pháp lý: Nhà nước xây dựng một hành lang pháp lý chặt chẽ và có hiệu lực sẽ lam lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với nhau cũng như giữa các tổ chức đó đối với ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp lý lỏng lẻo sẽ tạo ra nhiều kẽ hở, gây tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau gây thiệt hại cho các ngân hàng. Tuy nhiên thực tế ở nước ta các văn bản liên quan đến hoạt động của các ngân hàng thương mại còn vừa thiếu, vừa thừa, vừa chồng chéo, vừa sơ hở, vừa bất cập. Không tạo quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại và các Chi nhánh trực thuộc, nhưng cũng không gắn trách nhiệm đến cùng cho họ, dễ tạo điều kịên cho việc thực hiện tuỳ tiện của các cơ quan chức năng, cơ quan thi hành pháp luật, sự lẩn tránh trách nhiệm, trây ì của người vay. Không phù hợp với thông lệ hoạt động ngân hàng trên thế giới cũng như cơ chế thị trường mà Việt Nam đang chuyển đổi. Hiệu lực pháp lý thấp, chậm sửa đổi những bất hợp lý.

Nguyên nhân từ môi trường quốc tế: Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới hiện nay ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế. Một mặt nó tạo điều kiện giao lưu kinh tế, tăng hiệu quả kinh tế xã hội đất nước nhưng mặt khác nó lại tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt. Nếu doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả thì lập tức sẽ bị phá sản và chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động ngân hàng. Quan hệ kinh tế mở rộng ra các nước đã tạo ra sự ràng buộc về kinh tế, tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/01/2023