Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội - 5

án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự [31, Điều 203, Khoản 2].

Đây là một quy định rất mới của Luật Đất đai 2013. Theo đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai của Tòa án nhân dân được mở rộng hơn. Nếu như trước đây Tòa án nhân dân chỉ có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và khoản 5 điều 50 của Luật Đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì nay Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết đối với cả trường hợp đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.

Bên cạnh đó, đối với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai 2013; quyết định hành chính, hành vi hành vi hành chính về quản lý đất đai quy định tại Điều 204 Luật Đất đai 2013 mà đương sự không đồng ý thì họ có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Cụ thể, Khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai 2013 quy định:

Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:

Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính [31, Điều 203].

Ngày 26/6/2014, Tòa án nhân dân tối cao đã có công văn hướng dẫn số 117/TANDTC-KHXX. Do vậy, từ ngày 01/7/2014 khi thụ lý để giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp đất đai cần chú ý một số vấn đề sau:

Mọi tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã, (phường, thị trấn) mà không thành thì đương sự có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân. Đây là một quy định bắt buộc, được coi như một thủ tục “tiền tố tụng” mà đương sự phải thực hiện trước khi khởi kiện tới Tòa án nhân dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Đối với những tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ quy định tại điều 100 Luật Đất đai thì phải yêu cầu đương sự phải cam kết chỉ khởi kiện đến Tòa án nhân dân mà không đề nghị Ủy ban nhân dân giải quyết tranh chấp đất đai để tránh trường hợp cùng một vụ việc cả hai cơ quan cùng tham gia giải quyết.

Sau khi kiểm tra xem tranh chấp đất đai có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án hay không, Thẩm phán cần kiểm tra năng lực hành vi tố tụng dân sự của người khởi kiện, kiểm tra việc vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Thẩm phán phải xác định rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là gì trên cơ sở đó xác định các điều kiện thụ lý cụ thể mang tính đặc thù riêng của từng quan hệ pháp luật tranh chấp về quyền sử dụng đất.

Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội - 5

Áp dụng pháp luật trong thu thập chứng cứ

Sau khi thụ lý vụ án, trong thời hạn ba ngày làm việc Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, Thẩm phán nhận hồ sơ vụ án phải làm công việc sau.

- Thông báo thụ lý vụ án.

- Yêu cầu đương sự nộp tài liệu chứng cứ cho tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.

- Thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thì nguyên tắc chung: Cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp vừa là quyền và vừa là nghĩa vụ của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, khi có yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của người khác đối với mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì đương sự, cá nhân, tổ chức khởi kiện yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án nếu thấy chứng cứ mà đương sự giao nộp chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành thu thập chứng cứ.

Quá trình thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp đất đai, Thẩm phán tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ ở cơ quan quản lý đất đai như Sở địa chính, Phòng địa chính, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và một số cơ quan chức năng khác để thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan đến tranh chấp đất đai. Thẩm phán lập biên bản thu thập chứng cứ, trao đổi với cơ quan chức năng để làm rõ những tình tiết quan trọng như quá trình sử dụng đất của các đương sự, công sức của các bên trong việc bảo quản, tôn tạo, làm tăng giá trị quyền sử dụng đất…

Đối với các vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất, Thẩm phán phải đến tận nơi để xem xét thực tế thửa đất (kiểm tra thực địa). Khi xem xét phải lập biên bản mô tả vị trí, đặc điểm, phạm vi, diện tích, cần xác định rõ thửa đất nguyên thủy như thế nào…

Đối với những tranh chấp đất đai, Thẩm phán thường thành lập Hội đồng định giá và tuỳ thuộc vào loại tài sản cần định giá cho phù hợp và phải thực hiện đúng theo hướng dẫn tại của Toà án nhân dân tối cao. Hội đồng định giá trong vụ án tranh chấp đất đai gồm đại diện cơ quan tài chính, cơ quan địa chính, cơ quan xây dựng, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn, tổ dân phố nơi có tài sản định giá chứng kiến việc định giá và có sự giám sát của Thẩm phán giải quyết vụ án. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ gặp khó khăn thì Thẩm phán có thể ra quyết định uỷ thác cho Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc thu thập chứng cứ, tuỳ từng vụ án cụ thể thì Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định, trong những trường hợp cần thiết thì Thẩm phán có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ.

Quá trình thu thập chứng cứ phải tuân thủ nghiêm ngặt chính xác các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thì mới đảm bảo khách quan, làm rõ sự thật đi đến giải quyết vụ án được chính xác.

Áp dụng pháp luật trong đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án

Sau khi thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ và áp dụng pháp luật trong trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án căn cứ theo quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 như sau:

+ Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan tổ chức sáp nhập, chia tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng.

+ Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật.

+ Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.

+ Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.

+ Các trường hợp khác mà pháp luật quy định.

Hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án là số tiền tạm ứng án phí mà đương sự nội được gửi vào Kho bạc nhà nước và được xử lý khi Toà án tiếp tục giải quyết vụ án. Quyết định tạm đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Đối với trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án được quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thì Toà án áp dụng pháp luật để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thuộc các trường hợp sau:

+ Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế.

+ Cơ quan tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức.

+ Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện.

+ Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn, hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án.

+ Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án.

+ Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

+ Các trường hợp khác do pháp luật có quy định.

Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau

không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp trừ các trường hợp:

+ Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện.

+ Nguyên đơn đã triệu tập lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

Khi Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp nêu trên thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước. Trường hợp nếu trả lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả cho người nộp. Quyết định này có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm

Áp dụng pháp luật trong hoà giải

Trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai thì hoà giải là một thủ tục bắt buộc đối với việc giải quyết vụ án trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được theo quy định tại các Điều 180, 181, 182 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005. Xuất phát từ nguyên tắc “Quyền định đoạt và tự định đoạt của các đương sự” được quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 nên trong quá trình giải quyết vụ án, trước khi đưa vụ án ra xét xử Toà án phải tiến hành hoà giải để các bên đương sự tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Để việc hoà giải có kết quả người thẩm phán cần chuẩn bị chu đáo cho phiên hoà giải. Đó là Thẩm phán phải trang bị cho bản thân những hiểu biết về vụ án bao gồm các nội dung cụ thể;

- Quan hệ pháp luật tranh chấp

- Quan hệ tình cảm giữa các bên đương sự (nếu có)

- Nguyên nhân của tranh chấp

- Chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho yêu cầu của các đương sự

- Những văn bản, điều luật làm cơ sở pháp lý để giải quyết yêu cầu của đương sự.

Việc hiểu rõ nội dung vụ án sẽ giúp cho Thẩm phán có những phương án về giải quyết vụ án trên cơ sở đó có những phương án hoà giải phù hợp với nội dung vụ án và pháp luật. Chuẩn bị các phương án hoà giải, điều này giúp Thẩm phán chủ động được phiên hoà giải, đồng thời là cơ sở để Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong việc giúp đỡ các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án. Các phương án hoà giải phải phù hợp với quy định của pháp luật và đặc biệt phải phù hợp với ý chí của đương sự.

Chọn thời điểm để mở phiên hoà giải, thời điểm thích hợp nhất để tiến hành hoà giải là thời điểm gần kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử, trước khi hoà giải các Thẩm phán thường làm công tác tư tưởng trước cho các đương sự, giúp cho họ nhận thức đúng về quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong vụ án.

Sau khi công tác chuẩn bị hoà giải hoàn tất thì Thẩm phán sẽ thông báo về phiên hoà giải. Trong thông báo phải ghi rõ nội dung hoà giải, thời gian, địa điểm tiến hành hoà giải, theo quy định tại Điều 183 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 thông báo về phiên hoà giải được gửi cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự.

Thành phần tiến hành hoà giải gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải, thứ ký Toà án ghi biên bản hoà giải, các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người phiên dịch nếu đương sự không biết tiếng việt. Về nguyên tắc người được triệu tập phải có mặt tại phiên hoà giải nếu những người được triệu tập vắng mặt thì căn cứ theo quy định của pháp luật Thẩm phán sẽ giải quyết như sau:

Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt trong phiên hoà giải nhưng các đương sự khác có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và

việc tiến hành hoà giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ các đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa những người có mặt, nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn hoà giải. Tuy nhiên việc hoãn hoà giải phải thực hiện đúng theo quy định.

Khi tiến hành hoà giải Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết về các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Khi các bên đương sự tự thoả thuận được với nhau về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán hoặc thư ký toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này phải ghi cụ thể nội dung thoả thuận của các đương sự, có chữ ký của các bên đương sự, chữ ký của Thẩm phán, Thư ký ghi biên bản theo quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005. Sau 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà các bên đương sự không có ý kiến thay đổi về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán căn cứ vào các quy định của pháp luật áp dụng Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 để ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận của các đương sự là do nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội..

Áp dụng pháp luật khi đưa vụ án ra xét xử

Sau khi vụ án tranh chấp đất đai được tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật, nếu các đương sự trong vụ án tranh chấp đất đai không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành sau đó ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 21/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí