Ở khu vực thành phố Hà Nội, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở khu vực này thụ lý án thuộc lĩnh vực này ít hơn thành phố Hồ Chí Minh nhưng vẫn nhiều hơn thành phố Đà Nẵng, cụ thể: năm 2012 là 10/24 vụ, năm 2013 là 19/31 vụ.[42]
Trong tổng số vụ án mà Tòa phúc thẩm đã thụ lý, ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh kết quả giải quyết tranh chấp đất đai nói chung chiếm tỷ lệ lớn. Năm 2012 là 63/79 vụ, năm 2013 là 88/102 vụ.[48]
Ở khu vực miền Trung, số liệu thống kê cho thấy số lượng vụ án về tranh chấp đất đai đưa ra giải quyết tại Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại khu vực thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 2013 ít hơn so với số lượng án tranh chấp đất đai đưa ra giải quyết tại Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh; cụ thể: năm 2012 là 9/11 vụ, năm 2013 là 18/21 vụ.[45]
Về cơ bản, quá trình áp dụng pháp luật về tranh chấp đất đai theo pháp luật của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và tinh thần của cải cách tư pháp, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Các quyết định của hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét xử phúc thẩm và trên cơ sở xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án và hồ sơ vụ án xét xử ở cấp sơ thẩm nên về cơ bản đã đưa ra các phán quyết bảo đảm xét xử đúng pháp luật, đúng vụ việc.
Nhìn chung, hội đồng xét xử Tòa phúc thẩm đều tuân thủ những nguyên tắc của luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn có sự vi phạm các nguyên tắc ở mức độ này hay mức độ khác, đặc biệt là nguyên tắc độc lập xét xử. Nguyên tắc độc lập xét xử là nguyên tắc xương sống trong hoạt động xét xử của toà án, không có hoạt động nào lại đòi hỏi sự độc lập ở mức độ cao như hoạt động xét xử. Nhiệm vụ hàng đầu của toà án là áp dụng
đúng pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng và khách quan. Sự độc lập của toà án khi xét xử chính là điều kiện không thể thiếu được của việc thực hiện yêu cầu đó. Vì vậy, các quy định pháp luật phải bảo đảm cho toà án có một địa vị pháp lý độc lập ở mức tối đa. Độc lập vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của thẩm phán. Khi xét xử, thẩm phán không bị lệ thuộc vào ý kiến của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, mà tự mình xem xét đánh giá các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào các quy định của pháp luật để phán quyết. Thẩm phán không những độc lập với sự can thiệp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức bên ngoài toà án mà còn độc lập với chính sự can thiệp của cá nhân, tổ chức trong nội bộ toà án. Trong hoạt động tố tụng có nhiều chủ thể khác nhau, nhưng chỉ có thẩm phán là người được pháp luật giao nhiệm vụ xét xử một cách chuyên nghiệp, là người có điều kiện và khả năng đầy đủ nhất để xác minh, kiểm chứng toàn bộ các chứng cứ, tình tiết của vụ án và xem xét, đánh giá một cách toàn diện bản chất pháp lý của các sự kiện, hành vi và đưa ra phán quyết. Vì vậy, yêu cầu lớn nhất đặt ra là phải dành cho thẩm phán một môi trường không có sự can thiệp nào ngoài sự chỉ đạo của pháp luật và niềm tin nội tâm để đánh giá, phán xét toàn bộ các tình tiết của vụ án, vận dụng pháp luật để đi đến một phán quyết nhanh danh nhà nước. Một trong những biểu hiện của sự vi phạm nguyên tắc xét xử đó là tình trạng báo cáo án, duyệt án vẫn còn diễn ra ở Toà án nhân dân tối cao. Mặc dù pháp luật tố tụng không có quy định về việc báo cáo án, duyệt án nhưng trong thực tiễn công tác xét xử của ngành toà án thì việc báo cáo án của thẩm phán và việc duyệt án của lãnh đạo toà án trước khi xét xử đã trở thành một thông lệ. Thông thường hàng tháng sau khi có lịch xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử thì toà án tổ chức họp để thẩm phán báo cáo án và lãnh đạo TANDTC duyệt án. Về trình tự, thẩm phán chủ tọa phiên tòa báo cáo nội dung vụ án và đề xuất hướng giải quyết, sau đó tập thể thẩm phán và
lãnh đạo TANDTC tiến hành thảo luận, nếu không thống nhất được quan điểm về hướng giải quyết theo đề xuất của thẩm phán thì hầu như phải theo quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo toà án. Với hướng giải quyết đã được duyệt thì thẩm phán không thể nào làm khác được.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì khi áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa phúc thẩm TANDTC, hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền đưa ra những phán quyết của mình như: giữ nguyên hoặc sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm và trả về toà án cấp sơ thẩm xét xử lại theo trình tự sơ thẩm. Trên thực tế, những vụ án về tranh chấp đất đai tại TANDTC thường rất phức tạp, tài sản là bất động sản có giá trị lớn, đương sự không chỉ sống trong nước mà còn định cư ở nước ngoài…
2.2.2. Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà án nhân dân tối cao theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm:
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch Sử Và Vai Trò Của Toà Án Nhân Dân Tối Cao Trong Việc Áp Dụng Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Ở Việt Nam
- Thực Trạng Quy Định Của Pháp Luật Thực Định Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Tại Toà Án Nhân Dân Tối Cao
- Thực Trạng Áp Dụng Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Tại Toà Án Nhân Dân Tối Cao
- Tình Hình Giải Quyết Đơn Khiếu Nại Giám Đốc Thẩm, Tái Thẩm Của Tandtc Từ Năm 2008 Đến Năm 2010
- Một Số Thành Tựu, Hạn Chế Và Những Nguyên Nhân Cơ Bản Của Quá Trình Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Tại Toà Án Nhân Dân Tối
- Một Số Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Và Áp Dụng Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Tại Toà Án Nhân Dân
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án” [49]. “Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà toà án và các đương sự đã không biết được khi toà án giải quyết vụ án” [49, tr.335].
Điều 304 BLTTDS quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính là khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án, các đương sự không biết được khi toà án ra bản án, quyết định đó”.[27]
Khi phát hiện những vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc những tình tiết mới trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về các tranh chấp đất đai Toà án nhân dân tối cao sẽ huỷ bản án hoặc quyết định đó để xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Thông qua hoạt động của mình, TANDTC đã góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho các cán bộ làm công tác xét xử. Nội dung các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ chỉ rò những sai lầm về phương diện pháp luật trong việc xét xử của toà án các cấp, đồng thời hướng dẫn cách khắc phục những sai sót đó. Những sai lầm này được nêu trong các hội nghị tổng kết ngành, hội thảo về xét xử giúp cán bộ làm công tác xét xử nói chung có được nhận thức đúng đắn và tôn trọng pháp luật hơn. Thông qua giám đốc thẩm, tái thẩm, TANDTC sẽ hướng dẫn việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất, tránh việc nhận thức pháp luật sai lầm và áp dụng pháp luật một cách tuỳ tiện. Không chỉ có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp luật đối với cán bộ làm công tác xét xử mà nó còn góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho những người có liên quan đến vụ việc và người dân nói chung.
Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung nhà nước pháp quyền, thể hiện bản chất tốt đẹp của nhà nước ta. TANDTC trong hoạt động của mình phải đảm bảo việc xét xử được đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm không trực tiếp xét xử vụ án, không trực tiếp khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm nhưng bằng việc huỷ những bản án, quyết định sai, tạo cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi và xét xử lại nên đã góp phần khắc phục những vi phạm quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiệm vụ xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, vô hiệu các bản án, quyết định sai trái, đảm bảo việc xét xử hợp pháp và hợp hiến. Với mục đích này, giám đốc thẩm, tái thẩm góp
phần đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN, đảm bảo tính thống nhất, ổn định chặt chẽ của nhà nước và pháp luật.
Việc đảm bảo pháp luật được giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện quan trọng để hành vi của công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cho phép người dân được quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực của toà án; những bản án, quyết định này có thể bị huỷ nếu có căn cứ, trình tự tố tụng để giải quyết vụ án sẽ được khôi phục lại. Những quy định đó sẽ giúp người dân tin tưởng hơn pháp luật. Việc toà án thừa nhận sai lầm trong hoạt động của mình thông qua hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm góp phần củng cố lòng tin của dân vào cơ quan tư pháp.
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại Điều 188, Điều 279, Điều 30 BLTTDS [27] thì các bản án, quyết định là đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gồm:
- Bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
- Bản án, quyết định của toà án cấp phúc thẩm;
- Quyết định của toà án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Riêng đối với Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mà không thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Như vậy, đối với các bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì dù có sai lầm, vi phạm pháp luật hay có tình tiết mới thì cũng không phải là đối tượng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà là đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Đối với tất cả
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đều có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có những căn cứ do pháp luật quy định. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 [27] quy định quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC là quyết định cuối cùng; tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự[28] đã thay đổi điều này. Nghĩa là quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thể bị xem xét lại nếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được tiến hành trên cơ sở kết quả của công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử. Để đề cao trách nhiệm của những người có thẩm quyền trong việc tổ chức kiểm sát, giám đốc việc xét xử, tránh việc kháng nghị tràn lan làm mất tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền kháng nghị bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật để yêu cầu toà án xem xét lại bản án, quyết định này theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Ngoài ra, pháp luật không cho đương sự quyền kháng cáo giám đốc thẩm, tái thẩm mà chỉ trao cho họ quyền khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm. Quy định này là phù hợp vì tính chất của giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là “xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật”, là cơ chế tự kiểm tra của ngành tư pháp nên chỉ những người có thẩm quyền mới được pháp luật quy định có quyền kháng nghị nhằm đảm bảo công tác kiểm tra, giám sát của ngành toà án, mặt khác cũng tránh việc đương sự lạm dụng quyền của mình gây tình trạng án kéo dài không cần thiết.
Như vậy, thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ được giao cho TANDTC và Uỷ ban thẩm phán TAND cấp tỉnh. Riêng ở TANDTC có hai cấp giám đốc thẩm, tái thẩm là Toà Dân sự, Toà Lao động, Toà Kinh tế thuộc TANDTC và Hội đồng thẩm phán TANDTC. Trong đó:
- Toà Dân sự, Toà Kinh tế, toà Lao động TANDTC giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định dân sự (theo nghĩa rộng) đã có hiệu lực pháp luật của các TAND cấp tỉnh;
- Hội đồng thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của các Toà thuộc TANDTC, bao gồm: các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của các Toà Kinh tế, Toà Dân sự, Toà Lao động thuộc TANDTC và các bản án, quyết định phúc thẩm của ba Toà phúc thẩm TANDTC.
Để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của toà án và việc xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được kịp thời, hiệu quả, sớm khắc phục được những sai sót, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì việc kháng nghị cần được tiến hành trong một thời hạn nhất định.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự đã có những quy định mang tính thống nhất về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những bản án, quyết định dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động. Theo Điều 288 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS [28] thì thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật. Trong khi đó, theo Điều 308 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS [28] thì thời hạn kháng nghị tái thẩm là một năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo quy định của BLTTDS.
Trên thực tế công tác giám đốc thẩm, tái thẩm của TANDTC thì việc kháng nghị chủ yếu dựa vào việc xem xét đơn thư khiếu nại của đương sự hoặc của các cơ quan, ban ngành chuyển đơn. Trước đây BLTTDS không quy định thời hạn đương sự được quyền gửi đơn khiếu nại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà chỉ quy định thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nên nhiều trường hợp đương sự gửi đơn khiếu nại đã quá thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm hoặc gửi đơn
gần sát thời hạn kháng nghị khiến toà án không kịp rút hồ sơ, nghiên cứu phát hiện sai lầm để kháng nghị… Hoặc toà án đã nhận được đơn của đương sự nhưng để quá thời hạn, nếu khiếu nại của đương sự có căn cứ thì không thể kháng nghị giám đốc thẩm. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ không được bảo đảm. Nhưng hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định thời hạn gửi đơn xem xét lại bản án của toà án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật là 01 năm kể từ ngày quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật; điều này đã bảo vệ được quyền, lợi ích của đương sự; tránh trường hợp để quá thời hạn mới khiếu nại.
Việc quy định mốc thời gian bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đến mốc người có thẩm quyền kháng nghị ra quyết định kháng nghị làm thời hạn kháng nghị là không đảm bảo quyền lợi của đương sự. Rò ràng, quy định hiện hành về thời hạn kháng nghị là bất hợp lý. Đó chính là nguyên nhân gây thiệt hại quyền, lợi ích chính đáng của đương sự, đồng thời cũng dẫn đến bế tắc trong việc giải quyết các hồ sơ được cho là quá hạn kháng nghị mà không có sự phân định minh bạch lỗi.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không lấy mốc là ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật mà tính từ ngày phát hiện được tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Vậy, ngày phát hiện tình tiết mới là ngày nào? Cần lưu ý rằng, thời điểm bắt đầu tính thời hạn tức là tình tiết mới được phát hiện chỉ có ý nghĩa khi viện kiểm sát hoặc toà án nhận được nguồn tin đó và bắt đầu tính thời hạn, chứ không phải ngày đương sự hay một cơ quan, tổ chức nào khác phát hiện được những tình tiết mới đó. Khi nhận được nguồn tin về tình tiết mới, toà án hoặc viện kiểm sát còn phải tiến hành nghiên cứu, xác minh làm rò đó có phải là tình tiết mới hay không? Từ đó quyết định có kháng nghị hay không? Và BLTTDS quy định khoảng thời gian từ khi nhận được nguồn tin đến ngày ra quyết định kháng nghị tái thẩm là một năm. Quy định này đảm bảo được việc phát hiện, khắc phục hậu quả một cách kịp thời, nhanh chóng.