Yêu Cầu Của Việc Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Của Tòa Án Nhân Dân Ở Thành Phố Hà Nội

pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể. Bên cạnh đó cần tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ, xử lý nghiêm những cán bộ tham nhũng, tiêu cực.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX xác định:

Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra… Xét xử, thi hành án, tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về cả số lượng và chất lượng [8, tr.32].

Rà soát lại đội ngũ cán bộ Toà án trong sạch, vững mạnh, xác định lại biên chế cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng Toà án.

Tại Hội nghị lần thứ 9 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tháng 01/2004 đã tiếp tục đề ra một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng về cải cách tư pháp, theo đó tiếp tục củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra các cấp. Đối với công tác xét xử của Toà án theo hướng mở rộng tranh tụng ở Toà án, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [8].

Từ những chủ trương trong các văn kiện của Đảng đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy rằng, các quan điểm cơ bản đảm bảo áp dụng pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng của Toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội.

Quan điểm 1: Tổ chức và hoạt động xét xử của Toà án là trung tâm của hoạt động tư pháp cần phải nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật đảm bảo có hiệu quả trong việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung và các vụ án tranh chấp đất đai nói riêng.

Quan điểm 2: Xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán về áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai đủ về số lượng và chất lượng, đảm bảo về chất lượng.

Quan điểm 3: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai.

Quan điểm 4: áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án phải gắn liền với nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Quan điểm 5: áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai cần quan tâm chú trọng hơn nữa đến công tác hoà giải, xuất phát từ các quan hệ xã hội các tranh chấp đất đai thường xảy ra khi các bên tham gia quan hệ đó không thống nhất được vấn đề mà các bên cần giải quyết, không am hiểu pháp luật. Vì vậy khi các bên cần đến sự can thiệp của Toà án, thì Toà án là cơ quan phân định quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cũng như việc thực hiện nghĩa vụ của các đương sự. Để đảm bảo được nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự cũng như tạo được hoà khí và giải quyết mâu thuẫn giữa các bên cũng như giảm được thời gian chi phí cho Toà án và các đương sự, thì công tác hoà giải trong giải quyết các vụ án dân sự nói chung và trong giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng cần phải chú trọng.

Coi trọng và mở rộng tranh tụng tại phiên toà sẽ giúp cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nâng cao kỹ năng trong quá trình xét xử, đảm bảo được sự công bằng và áp dụng đúng các quy định của pháp luật, đem lại tính chính xác cao cho các quyết định của Toà án.

Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội - 10

Do đặc điểm của các vụ án tranh chấp đất đai là quyền quyết định và tự định đoạt thuộc về các đương sự nên áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh

chấp đất đai không chỉ Toà án có quyền chỉ định áp dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết các tranh chấp mà ở đây còn thể hiện sự bình đẳng của các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự, vì vậy công tác hoà giải cần được chú trọng. Ngoài việc nâng cao kiến thức pháp luật thì cán bộ, Thẩm phán ngành Toà án cần phải trau dồi đạo đức và khả năng truyền, phổ biến pháp luật trong quần chúng nhân dân, có như vậy mới đạt được những kết quả tốt nhất trong việc giải quyết án và hạn chế những tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội.

3.1.2. Yêu cầu của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân ở thành phố Hà Nội

Trong quan hệ đất đai hiện nay ở nước ta việc phát sinh tranh chấp đất đai là không thể tránh khỏi, do đó việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai là vô cùng quan trọng và cần thiết. Giải quyết tranh chấp đất đai với ý nghĩa là một nội dung của chế độ quản lý nhà nước về đất đai, là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết mâu thuẫn giữa các bên nhằm tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật đất đai để phục hồi quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên bị vi phạm, mang lại sự ổn định trong quan hệ đất đai, thúc đẩy sự phát triển của xã hội và hoàn thiện các quy định pháp luật đất đai. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân hiện nay là:

Yêu cầu 1: Thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai theo đó giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung của quản lý Nhà nước về kinh tế, nó là một trong những biện pháp nhất định để Nhà nước phát huy được vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật.

Yêu cầu 2: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai nhằm giải quyết các mâu thuẫn, hiềm khích trong nội bộ nhân dân, đây là việc làm rất quan trọng và cần thiết trong quản lý xã hội nói chung và quản lý đất đai

nói riêng. Nếu để tình trạng tranh chấp, khiếu kiện kéo dài mà không được giải quyết thì không những làm ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế, xã hội, đạo đức, trật tự, an toàn xã hội và nó còn phần nào thể hiện sự yếu kém trong công tác quản lý và giải quyết tranh chấp của các cơ quan chức năng, thậm chí nếu để kéo dài và tồn đọng quá nhiều tranh chấp thì có thể nói nó thể hiện sự “bất lực” của cơ quan Toà án nhân dân.

Yêu cầu 3: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai là nhằm làm ổn định các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ quản lý, sử dụng đất nói riêng, từ đó tạo động lực nhằm biến đất đai thành nguồn lực to lớn góp phần vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội đất nước.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội. Nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của Toà án nhân dân có một số giải pháp sau:

3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp. Do vậy, hoạt động của tòa án nhân dân cũng như hoạt động của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước ta đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết các tranh chấp đất đai của tòa án không có nghĩa là tổ chức đảng và đảng viên can thiệp vào hoạt động áp dụng pháp luật, quyết định thay tòa án. Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng chủ trương, đường lối xét xử, bằng phương hướng

đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp sao cho ngày càng có hiệu quả hơn và chất lượng áp dụng pháp luật ngày càng tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bản lĩnh chính trị, ý thức giác ngộ cách mạng của người cán bộ tư pháp nói chung, người cán bộ tòa án nói riêng luôn được giữ vững và nâng cao trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Yêu cầu đoàn kết, nhất trí trong các tổ chức đảng tại các đơn vị tòa án luôn là đòi hỏi quan trọng. Những chủ trương lớn của Đảng đều phải được ngành tòa án nhân dân khẩn trương quán triệt một cách nghiêm túc. Giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án là lĩnh vực khá nhạy cảm và phức tạp. Hơn nữa, hệ thống pháp luật liên quan chưa hoàn thiện, chưa cụ thể, chưa bao quát hết mọi tình huống trong thực tiễn nên Đảng phải tăng cường lãnh đạo công tác này đối với tòa án nhân dân, nhất là quan điểm chỉ đạo giải quyết đảm bảo nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.

3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật và tăng cường hướng dẫn, giải thích kịp thời các văn bản pháp luật có liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai

3.2.1.3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật và tăng cường hướng dẫn, giải thích kịp thời các văn bản pháp luật có liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai

Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay của nước ta đòi hỏi có một hệ thống pháp luật vừa đồng bộ, thống nhất và hoàn thiện, vừa phải có chất lượng cao và ổn định để thực sự trở thành những nguyên tắc xử sự chung, mẫu mực. Để áp dụng pháp luật tốt, trước hết cần phải có quy phạm pháp luật tốt. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất bởi lẽ, khi Nhà nước xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể và có chất lượng sẽ là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước

nói chung và tòa án nhân dân nói riêng áp dụng pháp luật thống nhất và có hiệu quả cao.

1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về sở hữu đất đai để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ

Xét về nguồn gốc hình thành, lịch sử chiếm hữu, khai phá và cải tạo thì đất đai không phải là sản phẩm riêng của cá nhân mà là tài sản chung của cả cộng đồng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện quản lý và định đoạt. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai là một chủ trương, chính sách lớn, rất quan trọng của Đảng, nhưng cho đến nay vẫn chưa được thể chế hóa một cách cụ thể, thống nhất bằng pháp luật. Sở hữu đất đai là nền tảng, cơ sở để xây dựng chế độ quản lý và sử dụng đất của một đất nước. Tuy nhiên, các đạo luật quan trọng của Nhà nước Việt Nam quy định về vấn đề này còn chưa thống nhất. Điều 17 Hiến pháp 1980 và Điều 17 Hiến pháp 1992 đều quy định: “Đất đai, rừng núi, sông ngòi, hầm mỏ… thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”. Như vậy, với quy định của Hiến pháp, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã ra đời, ở Việt Nam không còn tồn tại hình thức sở hữu đất đai nào khác ngoài hình thức sở hữu toàn dân. Trên cơ sở Hiến pháp, các bộ luật, đạo luật đơn hành khi quy định về sở hữu đất đai phải tuân thủ quy định của Hiến pháp. Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đã thể hiện theo đúng tinh thần của Hiến pháp. Tại khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” [27]. và tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” [31]. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực pháp lý kể từ ngày 1/1/2006 (BLDS năm 2005) lại quy định không thống nhất về vấn đề này. BLDS năm 2005 quy định về tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước, trong đú khẳng định: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao

gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất…” [29, Điều 200].

Như vậy, các quy định của Hiến pháp, BLDS, Luật Đất đai đều thống nhất ở một điểm, đó là: Nhà nước là người thống nhất quản lý toàn bộ đất đai, là đại diện chủ sở hữu thực hiện quyền đối với các tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, dưới góc độ là hình thức sở hữu, các quy định này đã đi theo các hướng khác nhau. Theo Hiến pháp và Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 thì “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” [31] còn theo Bộ luật Dân sự thì “đất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước” [29]. Đây là vấn đề mấu chốt liên quan nhiều đến quản lý và sử dụng đất đai, cần phải sớm nghiên cứu, sửa đổi trong thời gian tới để bảo đảm tính thống nhất của các văn bản pháp luật.

Bên cạnh đó, cần xác định rõ ràng, cụ thể hơn vai trò và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai; phân định rõ ràng, chặt chẽ hơn giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai theo hướng quy định rõ các quyền năng pháp lý của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu; đồng thời mở rộng quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất; thể hiện thành những quy định thống nhất, rõ ràng, cụ thể nhằm dễ thực hiện cho cả cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể sử dụng đất để tránh những cách hiểu khác nhau và thực hiện khác nhau từ những cơ quan quản lý nhà nước đến người dân; hạn chế tối đa tình trạng do pháp luật quy định chưa rõ ràng, chặt chẽ làm cho người sử dụng đất không nắm chắc quyền và nghĩa vụ của mình, trong khi đó chính quyền các cấp thì lại quản lý không nghiêm, dẫn đến vi phạm, tranh chấp, khiếu kiện gây mất ổn định trị an xã hội.

Mặt khác, hiện nay trên các diễn đàn, hội thảo khoa học có nhiều ý kiến cho rằng, cần nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai theo hướng quy định quyền sở hữu tư nhân đối với đất ở. Theo các ý kiến này, quyền về đất đai hiện nay gần như mở hết cho người dân, trừ quyền chuyển mục đích sử dụng đất. Thực

chất đất ở gần như đã là sở hữu tư nhân, dù danh nghĩa là sở hữu toàn dân. Quy định đất ở thuộc sở hữu toàn dân như hiện nay có thể hiểu là một đối tượng có hai chủ: một chủ là người sử dụng đất; chủ thứ hai là Nhà nước. Điều này dẫn đến ách tắc trong việc giao đất, thu hồi đất. Nhà nước áp giá, định giá nhưng người dân cũng có quyền đòi hỏi theo giá thị trường, mà theo giá thị trường thì “không biết bao nhiêu cho vừa”. Do đó, để khắc phục vướng mắc nêu trên, cần quy định công nhận quyền sở hữu tư nhân đối với đất ở. Chúng tôi cho rằng, các ý kiến này rất cần được quan tâm, nghiên cứu cho việc sửa đổi Luật Đất đai trong thời gian tới.

2. Sửa đổi, bổ sung các quy định Luật đất đai về giải quyết tranh chấp đất đai

Theo chúng tôi, cần quy định thống nhất các khái niệm về “tranh chấp đất đai”. Hiện nay, trong thực tế và trong khoa học pháp lý đang tồn tại một số khái niệm như “tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất”, “tranh chấp về quyền sử dụng đất”, “tranh chấp đất đai”; Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và đến Luật Đất đai năm 2013 đều sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”, tuy nhiên, nội hàm của khái niệm lại được giải thích khác nhau trong các văn bản hướng dẫn. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02 ngày 28/7/1997 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 thì sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về tài sản trên đất và quyền sử dụng đất”. Thông tư liên tịch số 01 ngày 3/1/2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất thay thế Thông tư số 02 nêu trên lại không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” mà sử dụng một thuật ngữ khác là “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền của Toà án. Theo đó “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” thuộc

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 21/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí