Phòng ngừa tham nhũng là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và công dân nhằm làm giảm bớt các điều kiện tham nhũng, bao gồm các hoạt động như: Ban hành các văn bản để điều chỉnh hành vi tham nhũng; tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức; công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan; minh bạch tài sản thu nhập; thực hiện cải cách thủ tục hành chính…
Chống tham nhũng là hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và công dân trong phát hiện và xử lý tham nhũng, bao gồm các hoạt động như: khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo; giám sát, kiểm tra, thanh tra; điều tra, truy tố, xét xử…
Phương châm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là lấy phòng ngừa là chính nhưng đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng. Để phòng ngừa tham nhũng, các cơ quan, tổ chức cần thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục cán bộ, công chức, viên chức không vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, cổ vũ động viên mọi tầng lớp nhân dân phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng. Trong phạm vi quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải thường xuyên nhắc nhở, giáo dục cán bộ đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, bảo vệ người tố giác… Điều đó góp phần quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng và đồng thời củng cố lòng tin của cán bộ, công chức cũng như của toàn dân đối với cơ quan, tổ chức và pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm pháp luật về PCTN
Để bảo đảm việc phòng, chống tham nhũng có hiệu quả và tuân theo một trật tự nhất định, nhà nước ban hành các quy định pháp luật nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Pháp luật xác định rõ hành vi nào là tham nhũng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, trình tự, thủ tục xử lý tham nhũng, đồng thời, quy định trách nhiệm và
cơ chế để phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa được xem là một ngành luật độc lập với đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng biệt, đó là các quy định góp phần vào việc phòng ngừa và xử lý tham nhũng. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa này thì khó có thể hệ thống hóa một cách đầy đủ và rút ra được những đặc điểm riêng của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Mặt khác, trong một số trường hợp cụ thể rất khó có thể xác định được những quy phạm pháp luật nào thuộc pháp luật phòng, chống tham nhũng, bởi các quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng nằm rải rác ở nhiều văn bản của nhiều ngành luật khác nhau như luật hình sự, luật hành chính, luật kinh tế… Đồng thời, cũng khó có thể nghiên cứu tìm ra phương thức, phương pháp hệ thống hóa pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Pháp luật về phòng, chống tham nhũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là tổng thể các quy phạm pháp luật được thể hiện trong Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhưng hiểu theo nghĩa này cũng có điểm hoàn toàn không chính xác vì bên cạnh Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, còn có rất nhiều văn bản thuộc ngành luật khác nhau cũng có tác dụng phòng, chống tham nhũng và có thể được xem là pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Nhìn chung, pháp luật phòng, chống tham nhũng có một số đặc thù riêng và có thể phân biệt được với pháp luật trong lĩnh vực khác, đó là:
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay - 1
- Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay - 2
- Khái Niệm Và Các Tiêu Chí Hoàn Thiện Pháp Luật Về Phòng, Chống Tham Nhũng
- Sự Cần Thiết Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Về Phòng, Chống Tham Nhũng
- Pháp Luật Và Kinh Nghiệm Về Phòng, Chống Tham Nhũng Trong Lịch Sử Phong Kiến Việt Nam
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
- Pháp luật về phòng, chống tham nhũng xác định rõ hành vi nào là hành vi tham nhũng và những biện pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng đối với các chủ thể có hành vi đó. Các biện pháp được áp dụng có thể là biện pháp hình sự, hành chính hoặc kinh tế, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng.
- Pháp luật về phòng, chống tham nhũng điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa tham nhũng và các quan hệ giữa các cơ quan chức năng của Nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong việc phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng, đồng thời, quy định vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng.
- Pháp luật về phòng, chống tham nhũng gồm các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan phòng, chống tham nhũng, các quy định về hợp tác quốc tế và phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng, đồng thời quy định các biện pháp bảo đảm nhằm phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.
- Pháp luật về phòng, chống tham nhũng quy định các cách thức, phương pháp tác động nhằm hạn chế, ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Từ các đặc điểm trên cho thấy, pháp luật về phòng, chống tham nhũng điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng bằng các phương pháp, cách thức điều chỉnh khác nhau, tùy theo tính chất, mức độ của các chủ thể có hành vi tham nhũng.
Các phương pháp điều chỉnh của nó mang tính quyền uy, phục tùng, buộc mọi chủ thể pháp luật phải tuân theo. Ngoài ra, trong một số ít trường hợp, nó sử dụng phương pháp điều chỉnh mang tính chất tùy nghi. Mặc dù việc áp dụng phương pháp tùy nghi trong pháp luật về phòng, chống tham nhũng rất hạn chế, song việc đảm bảo tính chất quyền uy nhưng mềm d o, không gò bó, xơ cứng phù hợp với thông lệ quốc tế, lợi ích của công dân, phù hợp với tâm lý, đặc điểm truyền thống của dân tộc.6
6 Ví dụ, Điều 20 Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là điều khoản tùy nghi, trong đó, khi phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng, Việt Nam tuyên bố bảo lưu quy định này, vì Bộ Luật hình sự Việt Nam 1999 không quy định pháp nhân là tội phạm. Tuy nhiên, Bộ Luật Hình sự 2015 đã quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.
Pháp luật về phòng, chống tham nhũng thể hiện theo cấu trúc logic bao gồm các nguyên tắc chung, các chế định pháp luật và các quy định pháp luật cụ thể. Các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trong đó chứa đựng quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về phòng, chống tham nhũng theo ý chí của Nhà nước. Hình thức của pháp luật về phòng, chống tham nhũng được thể hiện theo nhiều cách khác nhau, có khi được thể hiện bằng một văn bản luật điều chỉnh riêng về phòng, chống tham nhũng, nhưng thường là nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
Một số nguồn cơ bản của pháp luật về phòng, chống tham nhũng bao gồm:
- Thứ nhất, đường lối, chính sách của Đảng. Đây được coi là nguồn quan trọng đầu tiên của pháp luật về PCTN. Về nguyên tắc, nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ Hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với đường lối, chính sách của Đảng. Đường lối, quan điểm chỉ đạo hiện nay của Đảng ta về PCTN cơ bản vẫn là: Lấy phòng ngừa là chính; Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; từng bước mở rộng công cuộc PCTN ra khu vực ngoài nhà nước.
- Thứ hai, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PCTN. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PCTN hiện nay ở nước ta cơ bản khá toàn diện, đầy đủ, cụ thể gồm có: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (Chương XXIII Bộ luật này quy định một số tội phạm về tham nhũng); Luật tiếp cận thông tin năm 2016 (quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân); Luật tố cáo năm 2018 (quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với
hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật khác về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bảo vệ người tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo); Luật báo chí năm 2016; Luật tiếp công dân năm 2013;…
- Thứ ba, các điều ước quốc tế về PCTN. Điều ước quốc tế trở thành nguồn hình thức của pháp luật trong trường hợp nó được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế. Việc áp dụng này đã được thừa nhận trong Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của nước ta. Có thể kể đến một số điều ước quốc tế quan trọng về chống tham nhũng như: Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC); Công ước của OECD về chống hối lộ các quan chức công quyền nước ngoài; Công ước chống tham nhũng của Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS); Công ước chống tham nhũng của Liêm minh châu Phi; Công ước Luật hình sự về chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu; Công ước Luật dân sự về chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm pháp luật về phòng, chống tham nhũng như sau:
Pháp luật về ph ng, chống tham nhũng là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có th m quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, hình thức do luật định, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ph ng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; tổ chức, hoạt động của cơ quan ph ng, chống tham nhũng; phát huy vai tr , trách nhiệm của công dân, tổ chức trong ph ng, chống tham nhũng; hợp tác quốc tế về ph ng, chống tham nhũng và các biện pháp bảo đảm nhằm ph ng, chống tham nhũng có hiệu quả.
1.1.2. Vai trò của pháp luật về PCTN
Pháp luật về PCTN có một số vai trò cơ bản như sau:
Thứ nhất, pháp luật về PCTN thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng.
Từ trước đến nay, Đảng ta đã ban hành rất nhiều chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nghị quyết số 14/NQ/TW ngày 15/5/1996 về quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp để đấu tranh chống tham nhũng của Bộ Chính trị khóa VII đã chỉ rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân… Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó xác định:“Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Đại hội yêu cầu: “Thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương và địa phương đủ mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu quả”.7
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề cập một cách toàn diện, tập trung về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết Trung ương 3 khóa X đã đưa ra những nhận định, đánh giá về
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 286-287, 289.
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của những thiếu sót, khuyết điểm trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đề ra những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng, Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã phân tích tình hình tham nhũng ở tất cả các khía cạnh, đề cập các quan điểm, mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, đề ra các giải pháp toàn diện, đồng bộ với một kế hoạch thực hiện theo giai đoạn cụ thể. Chiến lược nhằm mục đích giải quyết nạn tham nhũng ở trên tất cả các cấp độ phòng ngừa và phát hiện, xử lý, về pháp lý bao gồm rà soát và tăng cường luật, quy tắc và các quy định về PCTN, về thiết chế hướng tới việc tăng cường trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, sức chiến đấu và hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng, về xã hội liên quan đến huy động người dân, phương tiện truyền thông tham gia chống tham nhũng, xây dựng văn hóa và tạo ra thói quen PCTN trong đời sống của cán bộ công chức, nhân dân, tổ chức các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng nhằm đảm bảo tính toàn diện, hiệu quả của chính sách PCTN.
Để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước thực hiện ban hành chính sách, pháp luật để cụ thể hóa đường lối, chủ trương đó.
Pháp luật với đặc tính của mình là những quy tắc xử sự chung, áp dụng cho các chủ thể trong xã hội nhằm tạo ra trật tự xã hội chung đã cụ thể hoá các quan điểm nêu trên của Đảng thành những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng; giảm thiểu tối đa ảnh hưởng tiêu cực của tham nhũng đến kinh tế, xã hội và sự phát triển của đất nước; góp phần tăng tính liêm chính của nhà nước; bảo đảm và phục vụ một cách tốt nhất quyền và lợi ích của công dân.
Thứ hai, pháp luật PCTN là cơ sở pháp lý để nhận diện tham nhũng. Để nhận diện tham nhũng, trước hết pháp luật đưa ra khái niệm tham nhũng, quy định các dấu hiệu đặc thù của tham nhũng. Tùy theo thực trạng tham nhũng và mục tiêu, yêu cầu của việc đấu tranh PCTN mà Nhà nước ban hành các quy định để nhận diện tham nhũng thông qua các dấu hiệu đặc thù của tham nhũng (Luật PCTN quy định ba dấu hiệu đặc thù của tham nhũng là:
a) do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện; b) có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) có yếu tố vụ lợi). Bên cạnh đó, pháp luật về PCTN quy định cụ thể những hành vi nào là hành vi tham nhũng với các dấu hiệu đặc trưng của nó và sự phân hóa về tính chất. Với việc quy định các hành vi tham nhũng, pháp luật đã tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có điều kiện nhận diện tham nhũng, nhận biết được các hành vi tham nhũng xảy ra trên thực tế, đồng thời, phân biệt được hành vi tham nhũng với hành vi vi phạm pháp luật khác, giữa hành vi tham nhũng này với hành vi tham nhũng khác.
Thứ ba, pháp luật PCTN tạo lập khuôn khổ pháp lý để phòng ngừa tham nhũng.
Phòng ngừa là một cách tiếp cận thông minh không chỉ trong việc chống tha nhũng mà còn trong việc chống mọi loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Việc đề cao phòng ngừa tham nhũng sẽ là cơ sở để hạn chế sự phát sinh các hành vi tham nhũng trên thực tế. Thực tiễn cho thấy các biện pháp phòng ngừa tham nhũng được nhiều nước coi trọng, các biện pháp phòng ngừa được áp dụng và không ngừng được rà soát, sửa đổi, bổ sung.
Để có tác dụng trong việc phòng ngừa tham nhũng, một mặt các quy định của pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cần phải bảo đảm sự chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức nhằm hạn chế sự lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi hoặc nếu có lợi dụng thì cũng có đủ điều kiện để phát hiện ra. Bên cạnh đó, pháp luật quy định rõ các biện pháp phòng ngừa tham nhũng cụ thể, trong đó nêu rõ cách thức, nội dung và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đối với việc thực hiện các biện pháp