Khái Niệm Và Các Tiêu Chí Hoàn Thiện Pháp Luật Về Phòng, Chống Tham Nhũng

phòng ngừa tham nhũng. Tùy theo điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia quy định cách thức, biện pháp phòng ngừa tham nhũng khác nhau. Ở nước ta, pháp luật về PCTN rất coi trọng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng và thực tế các quy phạm pháp luật về phòng ngừa tham nhũng chiếm tỷ lệ rất lớn trong Luật PCTN nhằm tạo lập khuôn khổ và xây dựng ý thức phòng ngừa tham nhũng trong các đối tượng và lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao trong xã hội.

Thứ tư, pháp luật PCTN tạo lập khuôn khổ pháp lý để phát hiện, xử lý tham nhũng.

Pháp luật là cơ sở pháp lý cho quá trình phát hiện tham nhũng hay nói cách khác là tìm ra những vụ việc tham nhũng để trên cơ sở đó có biện pháp khắc phục thiệt hại xảy ra, xem xét, ra quyết định xử lý những người có hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng. Việc phát hiện tham nhũng đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt vai trò của các cơ quan có chức năng PCTN. Pháp luật về PCTN quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan chức năng trong việc phát hiện hành vi tham nhũng. Việc phát hiện tham nhũng được thông qua những cách thức khác nhau, trong đó chủ yếu gồm: a) công tác tự kiểm tra để phát hiện, xử lý từ nội bộ của các cơ quan nhà nước; b) hoạt động của các cơ quan chức năng về PCTN như: thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử; c) hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp và tố cáo của công dân. Các công cụ phát hiện tham nhũng phải được thiết kế linh hoạt, chủ động và hiệu quả, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó đề cao vai trò của các cơ quan chức năng về PCTN. Bên cạnh đó, pháp luật là căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, kết luận các hành vi tham nhũng, xác định tài sản tham nhũng, để từ đó ra các quyết định xử lý đối với những người có hành vi tham nhũng, những người có liên quan và tài sản tham nhũng. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm để có hình thức xử lý vi phạm kỷ luật hành chính hoặc là truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xử lý tham nhũng không chỉ

nhằm trừng trị những người tham nhũng và những người có liên quan mà còn có tác dụng răn đe, giáo dục chung đối với mọi người trong xã hội, do đó, trong một số trường hợp, hình thức xử lý khá nghiêm khắc. Việc xử lý tài sản tham nhũng nhằm mục đích thu hồi để trả lại tài sản cho chủ sở hữu, đồng thời, cũng là biện pháp chế tài kinh tế hữu hiệu để trừng phạt những người có hành vi tham nhũng và có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa tham nhũng nảy sinh.

So với các quy định về phòng ngừa thì các quy định về phát hiện và xử lý tham nhũng thường ít hơn, nhưng lại mang tính cưỡng chế rất cao. Các biện pháp chế tài xử lý các hành vi tham nhũng cũng như tài sản tham nhũng thường nghiêm khắc hơn. Chế tài đối với những người có hành vi tham nhũng được pháp luật quy định rõ trong pháp luật hình sự (đối với những vi phạm đến mức phải xử lý hình sự) hoặc trong các quy định về xử lý kỷ luật, hành chính đối với cán bộ, công chức, viên chức và những người có liên quan, trong đó, hình thức xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng hiện nay là tương đối nghiêm khắc, cao nhất là tử hình. Biện pháp xử lý tài sản tham nhũng được áp dụng là thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng và trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước. Việc xử lý nghiêm minh những người có hành vi tham nhũng và việc xử lý triệt để đối với tài sản tham nhũng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cũng như của các tổ chức, cá nhân, công dân trong cuộc đấu tranh PCTN.

Do chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng thường là những người có chức vụ, quyền hạn nên pháp luật phải quy định hệ thống các biện pháp để kiểm soát chặt chẽ và kịp thời phát hiện được các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng. Trên thực tế, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, tham nhũng là khá đa dạng, thậm chí rất tinh vi với nhiều thủ đoạn khác nhau, do đó, các quy định của pháp luật phải bảo đảm có thể dự liệu được phần lớn các hành vi tham nhũng trên thực tế để việc phát hiện và xử lý

tham nhũng được thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, các biện pháp phát hiện, xử lý tham nhũng cũng phải được các cơ quan chức năng của Nhà nước quan tâm thực hiện đầy đủ, đồng bộ để khắc phục tình trạng nhiều hành vi tham nhũng không được phát hiện, xử lý trên thực tế, hoặc phát hiện được nhưng không được xử lý nghiêm minh, kịp thời.

Thứ năm, pháp luật PCTN là cơ sở pháp lý để các cơ quan PCTN thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình trong PCTN.

Việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng có liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước và mỗi cơ quan đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng nên pháp luật phải quy định rõ ràng, cụ thể trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành để các cơ quan chức năng có cơ sở pháp lý trong quá trình áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý những người có hành vi tham nhũng, đặc biệt đối với các đối tượng có hành vi chống đối, cản trở hoạt động PCTN, pháp luật về PCTN quy định các biện pháp chế tài để xử lý một cách nghiêm minh. Bằng các quy định của pháp luật, các cơ quan chức năng triển khai các hoạt động, nhiệm vụ PCTN một cách chủ động mà không quan ngại những cản trở từ phía người có hành vi tham nhũng cũng như những người có liên quan đến tham nhũng.

Bên cạnh đó, trên cơ sở quy định của pháp luật về PCTN, các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nhằm tránh khỏi sự xâm hại hoặc đe doạ xâm hại phía những người có chức, có quyền trong xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Pháp luật PCTN quy định trình tự, thủ tục, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan chức năng trong PCTN. Pháp luật cũng là căn cứ pháp lý để cán bộ, công chức nhà nước, nhất là những người có chức vụ, quyền hạn hiểu rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mình trong việc quyết định các vấn đề có liên quan đến công tác PCTN.

Thứ sáu, pháp luật về PCTN là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong PCTN.

Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay - 4

Pháp luật quy định vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong PCTN. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, công dân và các tổ chức trong xã hội chủ động tham gia vào công tác PCTN bằng nhiều cách thức khác nhau, hoặc thực hiện quyền giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan của nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội nhằm phát hiện các hành vi tham nhũng; cung cấp thông tin về tham nhũng cho các cơ quan chức năng của nhà nước để làm rõ và có biện pháp xử lý; phối hợp với các cơ quan chức năng của nhà nước trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra, điều tra để phát hiện và xử lý tham nhũng. Mặt khác, pháp luật cũng là cơ sở pháp lý để triển khai các biện pháp bảo vệ những người tích cực tham gia vào công tác PCTN, nhất là công dân tố cáo tham nhũng; đồng thời, khuyến khích, khen thưởng đối với những tổ chức, cá nhân có thành tích trong PCTN, xử lý những trường hợp bao che, thiếu tích cực trong PCTN.

Thứ bảy, pháp luật về PCTN là chuẩn mực để các chủ thể lựa chọn những xử sự phù hợp trong đời sống pháp lý.

Pháp luật bao gồm những quy tắc xử sự chung được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Các quy định của pháp luật thường được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn với trình độ kỹ thuật lập pháp cao, trong đó có chứa đựng rất nhiều giá trị chuẩn mực. Từ việc hiểu pháp luật mà các tổ chức, cá nhân trong xã hội có sự lựa chọn cho mình cách ứng xử với nhau để phù hợp với chuẩn mực và không bị vi phạm pháp luật. Khi hiểu được pháp luật về PCTN thì đối với những người có chức vụ, quyền hạn cần phải chọn cho mình cách ứng xử trên thực tế để không dân đến vi phạm pháp luật. Đối với những người có chức vụ, quyền hạn cần phải có sự lựa chọn xử sự của mình với nguyên tắc chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, còn đối với những gì mà pháp luật không cho phép hoặc chưa quy định hoặc nghiêm cấm thì không lựa chọn. Đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội thì lựa chọn những xử sự mà pháp luật không cấm hoặc bắt buộc phải làm.

Thứ tám, pháp luật là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người, sự phát triển bền vững; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, xây dựng củng cố niềm tin của người dân vào nhà nước, pháp luật.

Pháp luật PCTN bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tránh sự xâm hại của các chủ thể, nhất là những người có chức, có quyền trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật PCTN cũng bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, tập thể. Thông qua đó, chính pháp luật PCTN đã bảo vệ quyền con người và tạo lập sự bình đẳng, công bằng trong xã hội và sự phát triển bền vững. Khi thúc đẩy PCTN với hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ, thì sẽ góp phần bảo vệ các quyền con người và ngược lại việc thực hiện bảo vệ quyền con người, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, nhất là công dân tham gia phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả PCTN. Thúc đẩy PCTN còn tạo thêm niềm tin cho công chúng vào nhà nước, pháp luật.

Thứ chín, pháp luật PCTN là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động hợp tác quốc tác PCTN.

Chống tham nhũng ngày nay không chỉ là công việc riêng của bất cứ một quốc gia nào mà còn là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thực tế, có những hành vi tham nhũng được thực hiện xuyên quốc gia, đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nước trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Để tạo lập khuôn khổ pháp lý trong đấu tranh chống tham nhũng, các nước trên thế giới đã chung tay xây dựng Công ước của LHQ về chống tham nhũng. Trong khuôn khổ hợp tác quốc tế song phương, đa phương, các nước có quan hệ ngoại giao cũng đã thống nhất xây dựng các thỏa thuận hoặc điều ước quốc tế về nghiên cứu, đào tạo, xây dựng chính sách, trao đổi thông tin, hỗ trợ tài chính, trợ giúp kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, tương trợ tư pháp trong PCTN. Đối với Việt Nam, trên cơ sở các quy định của pháp luật về ký kết,

tham gia điều ước quốc tế và các quy định của pháp luật về PCTN, Chủ tịch nước phê chuẩn Công ước của LHQ về chống tham nhũng, thể hiện sự quyết

tâm và cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc đấu tranh PCTN. Căn cứ các nội dung đó, các cơ quan chức năng rà soát lại hệ thống pháp luật Việt Nam để xây dựng kế hoạch cụ thể về thực thi Công ước của LHQ về PCTN. Mặt khác, trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng thể hiện tinh thần hợp tác quốc tế về PCTN. Luật PCTN cũng đã ghi nhận những nguyên tắc cơ bản trong hợp tác quốc tế và quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về PCTN.

Ngoài ra, pháp luật quy định các nguyên tắc trong áp dụng pháp luật về PCTN để bắt buộc các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phải tuân thủ, nhằm bảo đảm tính thống nhất về nhận thức và hành động PCTN.

Như vậy, pháp luật đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động PCTN, do đó, cần tăng cường bảo vệ pháp luật PCTN và thường xuyên nghiên cứu, rà soát để HTPL về PCTN.

1.2. Khái niệm và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng


1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng

Trên thực tế, các quan hệ xã hội luôn luôn vận động, đòi hỏi các quy phạm pháp luật cũng phải có sự điều chỉnh để phù hợp với sự vận động của các quan hệ xã hội, do đó, hoàn thiện pháp luật là một trong những công việc thường xuyên của bất cứ một nhà nước nào. Trong lĩnh vực PCTN, các hành vi tham nhũng được thực hiện trên thực tế ngày càng đa dạng, tinh vi, phức tạp và rất khó phát hiện, xử lý, do đó, pháp luật về PCTN cũng cần phải có sự thay đổi để kịp điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi các hành vi tham nhũng xảy ra. Việc nghiên cứu để HTPL về PCTN là nhu cầu tất yếu của các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi cũng phải bảo đảm được những tiêu chuẩn và yêu cầu nhất định.

Một trong những yêu cầu quan trọng nhất đó là pháp luật về PCTN phải bảo đảm điều chỉnh được các quan hệ có liên quan đến tham nhũng xảy ra trong thực tiễn. Theo đó, các quy phạm pháp luật về PCTN được ban hành, sửa đổi, bổ sung đều phải xuất phát từ những yêu cầu khách quan, phù hợp

với quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước và phát huy được hiệu lực, hiệu quả trong công tác PCTN.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về thực trạng tham nhũng, pháp luật về PCTN, các quan điểm chính trị của giai cấp, chính đảng cầm quyền, các cơ quan chức năng đưa ra những dự báo các hành vi tham nhũng sẽ xảy ra trên thực tế để xác định phương hướng và để ra giải pháp cụ thể trong việc HTPL về PCTN, trong đó có đưa ra phương án xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu, hủy bỏ những quy định không phù hợp, thiếu tính khả thi, sửa đổi các quy định chưa thực sự phù hợp để thực hiện được mục tiêu phòng ngừa, ngăn chặn được các hành vi tham nhũng có thể xảy ra, đồng thời, phát hiện và xử lý được các hành vi tham nhũng xảy ra trên thực tế, có như vậy pháp luật mới góp phần thực hiện được mục tiêu ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng.

Qua đó, ta có thể định nghĩa rằng: Hoàn thiện pháp luật về PCTN là quá trình làm cho các quy định của pháp luật về PCTN ngày càng minh bạch, toàn diện, thống nhất, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn PCTN của đất nước.

1.2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng

Có thể khẳng định rằng, một hệ thống pháp luật hoàn thiện là mục tiêu mà tất cả các Nhà nước đều hướng tới. Để đánh giá về một hệ thống pháp luật, xác định mức độ hoàn thiện của nó cần dựa vào những tiêu chuẩn (tiêu chí) được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực tiễn trong mỗi giai đoạn cụ thể để rút ra những kết luận và làm cơ sở cho việc tìm kiếm các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống ở mức độ cao hơn.

Có nhiều tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung, trong đó có thể kể đến các tiêu chí cơ bản như: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, tính hiệu quả và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống pháp luật. Qua nghiên cứu cho thấy việc đánh giá mức độ HTPL về PCTN cần phải dựa và những tiêu chí cơ bản sau:

Thứ nhất, pháp luật về PCTN phải đảm bảo tính minh bạch, theo đó, các quy định của pháp luật phải rõ ràng, cụ thể, không được mập mờ, khó hiểu dẫn đến sai lệch trong nhận thức và áp dụng pháp luật về PCTN. Đồng thời, các văn bản pháp luật phải được công bố công khai (từ khi bắt đầu quy trình xây dựng văn bản đến việc lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan liên quan, các chuyên gia và đông đảo người dân đến khi văn bản được ban hành) để các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu biết và thực hiện theo quy định (nhất là quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình trong công tác PCTN cũng như để các cơ quan chức năng của nhà nước khi xây dựng các quy định khác có điều kiện thuận lợi trong việc rà soát, hạn chế những nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn với quy định của pháp luật về PCTN.

Thứ hai, pháp luật về PCTN phải đảm bảo tính toàn diện. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật phản ánh mức độ đầy đủ của hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật. Các quy phạm pháp luật về PCTN phải bảo đảm cả về mặt hình thức và nội dung, điều chỉnh được các quan hệ pháp luật về PCTN, nhất là trong việc xác định hành vi tham nhũng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, trong đó, bất cứ một hành vi tham nhũng nào xảy ra trên thực tế đều có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để áp dụng, điều chỉnh.

Thứ ba, pháp luật về PCTN phải đảm bảo tính nhất quán, tính hệ thống. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành hay sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm được sự thống nhất với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về PCTN nói riêng, không mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản pháp luật, nhất là các văn bản đang có hiệu lực pháp luật, đồng thời bảo đảm được sự thống nhất giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một văn bản pháp luật về PCTN.

Mặt khác, các quy định của pháp luật về PCTN phải bảo đảm được tính thứ bậc trên - dưới. Các quy định của pháp luật về PCTN phải bảo đảm không trái với các quy định khác trong hệ thống pháp luật nhất là Hiến pháp và các

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 07/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí