Về cơ bản Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án các cấp đủ năng lực để ADPL trong xét xử hình sự. Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tăng cường khả năng tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ ADPL cho Thẩm phán, công tác bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho Hội thẩm nhân dân được tăng cường. Vì vậy đây là điều kiện để họ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tuy vậy, trong đào tạo bồi dưỡng kiến thức cũng còn có nhiều khiếm khuyết, thiếu hụt, như việc đào tạo kiến thức tâm lý, giáo dục là những đòi hỏi đặt ra cho người Thẩm phán, Hội thẩm khi ADPL để xử lý NCTN phạm tội. Quá trình vận hành của bộ máy vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém như: công tác tổ chức ở một số đơn vị cấp huyện vẫn chậm được kiện toàn và đổi mới; việc sắp xếp cán bộ có lúc, có nơi chưa hợp lý, vì vậy chưa phát huy được hết năng lực, sở trường của từng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đã được đầu tư, quan tâm thỏa đáng và thực hiện theo hướng đồng bộ nhưng chưa chuyên sâu và đạt hiệu quả cao. Công tác qui hoạch, đề bạt và bổ nhiệm Thẩm phán ở nhiều huyện chưa thực sự khoa học, hợp lý, nhiều cán bộ sau khi được đề bạt, bổ nhiệm chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu do năng lực còn non, nhất là thiếu kinh nghiệm quản lý…
Nhằm khắc phục những yếu kém, tồn tại về công tác tổ chức bộ máy cán bộ của ngành Tòa án trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cần thực hiện những giải pháp sau:
- Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục chỉ đạo toàn ngành sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị theo đúng qui định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử, đặc biệt là yêu cầu của việc tăng thẩm quyền cho các đơn vị cấp huyện theo qui định Bộ luật TTHS năm 2003. Trước mắt Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá tập trung chỉ đạo Tòa án nhân dân các huyện rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy làm việc
của các đơn vị đã có quyết định mở rộng thẩm quyền xét xử, đảm bảo đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Về lâu dài theo chiến lược cải cách tư pháp của Bộ chính trị, lãnh đạo tỉnh cần nghiên cứu mô hình tổ chức ngành Tòa án sao cho tinh gọn mà hiệu quả, giúp cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chủ động trong việc xét xử án phạm nói chung và xét xử vụ án NCTN phạm tội nói riêng.
Theo tinh thần Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức theo mô hình thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực (được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện), Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực (như: khu vực Tây Bắc Bộ, Đông Bắc bộ, Bắc Trung bộ…) có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân Tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm… Về nguyên tắc tổ chức bộ máy các cơ quan tiến hành tố tụng, ở đâu có Tòa án thì ở đó có Viện kiểm sát để thực hành quyền công tố. Đây là mô hình có nhiều điểm ưu việt, vừa đảm bảo tinh gọn về đầu mối, vừa phân bố lượng công việc phù hợp giữa các đơn vị hành chính. Qua tổng kết đánh giá, trên thực tế một số đơn vị cấp huyện (Chủ yếu là đơn vị thành phố, thị xã, các huyện đồng bằng) có số lượng án thụ lý giải quyết hằng năm lớn. Bên cạnh đó, một số đơn vị lại rất ít việc, có đơn vị miền núi thì “không có việc để làm”. Nếu chúng ta áp dụng tổ chức và hoạt động theo mô hình Tòa án khu vực như tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị sẽ đảm bảo tăng cường tính độc lập của các cơ quan tiến hành tố tụng, hạn chế tối đa sự can thiệp của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương vào hoạt động ở các cơ quan này.
- Hiện nay, Tòa án nhân dân Tối cao và các cơ quan có thẩm quyền đang tiến hành nghiên cứu thành lập Tòa án NCTN, đây là Tòa án chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân. Tòa án NCTN có nghĩa vụ xét xử các vụ án mà bị can, bị cáo là người ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Nếu trong thời gian tới Tòa án NCTN được thành lập thì việc xét xử sẽ qui mô và chuyên sâu về chuyên môn hơn, đội ngũ cán bộ Thẩm phán mới ra đời đáp ứng việc chuyên môn hóa hoạt động xét xử của Tòa án; giúp cho việc giải quyết vụ án đảm bảo tính khách quan, kịp thời, chính xác; góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá được tổ chức thành hai cấp: Cấp tỉnh và cấp huyện.
- Tòa án tỉnh gồm có tòa chuyên trách (Tòa hình sự,Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động,Tòa hành chính), phòng Giám đốc kiểm tra - Thi hành án phạt tù, phòng tổ chức cán bộ và bộ phận văn phòng. Chánh án Tỉnh là người quản lý cao nhất, có 4 phó chánh án, 05 chánh tòa chuyên trách, 05 phó chánh tòa của 05 tòa chuyên trách, 15 thẩm phán, 01 trưởng phòng GĐKT- THAPT, 01 phó phòng GĐKT-THAPT, 01 chánh văn phòng, 01 phó chánh văn phòng, 01 trưởng phòng tổ chức cán bộ, 02 phó phòng tổ chức cán bộ, 18 thư ký cho các tòa phòng và 5 thẩm tra viên.
- 27 Tòa án cấp huyện. Đối với Tòa án cấp Huyện không có tòa chuyên trách, có 27 chánh án quản lý chung, có 48 phó chánh án.
Từ năm 2009 đến nay, số lượng Thẩm phán và trình độ năng lực chuyên môn luôn được bổ sung và chuẩn hóa.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Điều Kiện Bảo Đảm Áp Dụng Pháp Luật Trong Xét Xử Sơ Thẩm Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Của Tòa Án Nhân Dân
- Thực Hiện Đầy Đủ Và Chặt Chẽ Các Thủ Tục Tố Tụng Trong Xét Xử Các Vụ Án Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội
- Tình Hình Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở Tỉnh Thanh Hoá
- Quan Điểm Áp Dụng Pháp Luật Trong Xét Xử Sơ Thẩm Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội
- Trong Áp Dụng Pháp Luật Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Phải Đảm Bảo Nghiêm Minh, Đúng Người, Đúng Tội, Đúng Pháp Luật, Kết Hợp Chặt
- Hoàn Thiện Các Quy Định Pháp Luật Hình Sự Về Người Chưa Thành Niên Phạm Tội
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Nhiệm vụ xét xử sơ thẩm hình sự nói chung, xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội của Tòa án cấp tỉnh chủ yếu do Thẩm phán tòa Hình sự Tòa án nhân dân tỉnh thực hiện. Đối với Tòa án cấp huyện, theo qui định của luật Tổ chức Tòa án không phân chia ra các tòa chuyên trách. Các Thẩm phán tòa án cấp huyện đều thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự.
Tóm lại, những đặc điểm về tự nhiên, văn hóa, xã hội và công tác cán bộ Tòa án ở tỉnh Thanh Hoá tạo những điều kiện về vật chất và con người có ảnh hưởng tới hoạt động ADPL trong xét xử về hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội nói riêng. Ảnh hưởng đó có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động ADPL của Tòa án. Vì vậy, cần được tìm hiểu nghiên cứu cụ thể để có định hướng và kế hoạch hoàn thiện hệ thống cơ quan Tòa án ở địa phương, đồng thời bảo đảm hiệu quả hoạt động ADPL của Tòa án trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
2.3.2. Những ưu điểm chủ yếu về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá
Quán triệt Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện tập trung thống nhất sự chỉ đạo của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong Tỉnh về chuyên môn nghiệp vụ, mở nhiều hòm thư tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, đặc biệt tội phạm vị thành niên trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xử lý tố giác, tin báo về tội phạm nhằm hạn chế bỏ lọt tội phạm; qua đó nắm được tương đối đầy đủ tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm để tìm ra biện pháp tối ưu đẩy lùi hiện tượng đó ra khỏi đời sống xã hội.
Tòa án nhân dân hai cấp trong tỉnh luôn quán triệt và xác định NCTN phạm tội là đối tượng đặc biệt, khi ADPL cả về hình thức và nội dung, ngoài những nguyên tắc chung thì cần chú trọng và đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc, các qui định riêng. Việc ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội phải đảm bảo đường lối nhân đạo, khoan hồng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Kết quả đạt được trong hoạt động ADPL đối với
NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá những năm vừa qua thể hiện cụ thể ở các mặt sau:
Trong 5 năm, từ năm 2009 đến năm 2013 số vụ án có bị cáo là NCTN phạm tội là 308 vụ với 366 bị cáo. Số lượng bị cáo là NCTN phạm tội trong 5 năm tăng cao phản ánh diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm do NCTN phạm tội gây ra. Việc xét xử sơ thẩm qua các năm thể hiện: Năm 2009: 45 bị cáo; năm 2010: 18 bị cáo; năm 2011: 101 bị cáo; năm 2012: 119 bị cáo; năm 2013: 83 bị cáo. Nhìn chung tình hình NCTN phạm tội có xu hướng tăng qua các năm. Trong 5 năm qua (2009 - 2013) án sơ thẩm đối với NCTN ở cả hai cấp xét xử của Tòa án không để xảy ra oan sai, nên việc hủy án sơ thẩm được hạn chế tối đa. Nhìn chung, việc ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội đã tuân thủ theo đúng qui định về trình tự, thủ tục cũng như các nguyên tắc khi xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN phạm tội. Để đạt được kết quả trên, trước hết trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các Thẩm phán đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, đánh giá một cách khách quan, đầy đủ cả về tính hợp pháp của thủ tục tố tụng và các chứng cứ chứng minh tội phạm. Qua nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán đã phát hiện những thiếu sót cả về tố tụng và nhiều chứng cứ quan trọng để quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát. Số lượng các vụ án có NCTN phạm tội phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung không nhiều (chỉ 4 vụ/308 vụ, trong đó cấp tỉnh 1 vụ, cấp huyện 3 vụ). Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án nhiều Thẩm phán đã phát hiện trao đổi kịp thời với Viện kiểm sát khắc phục các thiếu sót về thủ tục tố tụng và chứng cứ mà không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhất là các thiếu sót liên quan tới thủ tục yêu cầu hoặc từ chối người bào chữa cho NCTN; chứng cứ xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị cáo là NCTN phạm tội. Cũng trong giai đoạn này, Thẩm phán đã chú trọng tới việc thu thập các tài liệu, đồ vật do những người tham gia tố tụng đưa ra, phát hiện những tình tiết
mới của vụ án để giải quyết đúng đắn, khách quan. Sau khi nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần tuân thủ các qui định của pháp luật Tố tụng hình sự, đồng thời ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng qui định tại khoản 1 Điều 307 BLTTHS năm 2003 - nghĩa là đảm bảo yêu cầu có một Hội thẩm là Giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Do làm tốt công tác chuẩn bị trên, nên khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm rất ít trường hợp hoãn phiên tòa vì lý do thành phần HĐXX không đảm bảo hoặc người tham gia tố tụng không đúng qui định.
Có thể nói ngay khi phiên tòa đang diễn ra, HĐXX đã thực hiện đúng các qui định về trình tự thủ tục, xác định đúng độ tuổi của bị cáo khi đứng trước vành móng ngựa và độ tuổi của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội để ADPL về hình thức và nội dung được chính xác hơn. Các bị cáo là NCTN khi xét xử đều được đảm bảo quyền bào chữa theo qui định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS và sự có mặt của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức. Vì vậy mà hoạt động tranh tụng tại phiên tòa được phát huy hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NCTN phạm tội. Hầu hết các phiên tòa diễn ra công khai, để thấy được sự khách quan, công tâm của những người “cầm cân nảy mực”.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân các cấp đã xác định đúng tội danh, quyết định TNHS đúng đắn đối với NCTN phạm tội. Việc để xảy ra án oan sai đối với NCTN đã bị đẩy lùi trong những năm qua. Đó là tín hiệu đáng mừng trong công tác ADPL của cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán trực tiếp xét xử các vụ án đối với bị cáo là NCTN phạm tội nói riêng. Theo báo cáo của ngành Kiểm sát và ngành Tòa án thì nhóm nguyên nhân thuộc về sự quản lý, giáo dục của gia đình dẫn đến việc phạm tội chiếm 60% số vụ NCTN gây ra. Số còn lại do nguyên nhân từ sự thiếu quan tâm của nhà trường, chính quyền cơ sở trong việc quản lý giáo dục thanh thiếu niên; từ sự ảnh hưởng của môi trường bên ngoài như: Văn hóa không lành mạnh, phim ảnh bạo lực, đồi trụy
không kiểm soát được trên mạng và các phương tiện thông tin đại chúng… Do vậy, phiên tòa xét xử NCTN phạm tội được diễn ra công khai như một sự cảnh tỉnh, báo động cũng như đang tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật tới người dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên hãy luôn sống có ý thức và biết cách tu dưỡng đạo đức, hoàn thiện bản thân.
Kết quả và những ưu điểm đối với việc ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá là rất đáng ghi nhận. Trong những năm qua công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm đạt kết quả đáng mừng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế quốc phòng toàn dân.
2.3.3. Những hạn chế chủ yếu về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá và nguyên nhân
Trong những năm qua công tác áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá nhìn chung đạt kết quả cao, có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đáng khen ngợi đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định do những nguyên nhân khác nhau. Khi chúng ta đánh giá đúng nguyên nhân, phân tích kỹ những hạn chế là cần thiết và có ý nghĩa để đề ra những giải pháp khoa học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội.
* Những hạn chế
Thứ nhất, khi được giao thụ lý xét xử sơ thẩm vụ án có người chưa thành niên phạm tội - một số Thẩm phán thực hiện chưa đúng, chưa đầy đủ các thủ tục tố tụng cần thiết. Chẳng hạn, việc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử còn chậm, không đảm bảo thời hạn, ảnh hưởng tới quyền bào chữa của bị cáo. Một số vụ án, Tòa án chấp nhận sự thay đổi người đại diện của gia đình
bị cáo khi không có ủy quyền hợp lệ. Ví dụ như: Tòa án triệu tập người đại diện hợp pháp (Bố, mẹ) của bị cáo, nhưng tại phiên tòa, anh, chị của bị cáo lại thay thế vai trò này mà không có ủy quyền từ người đại diện hợp pháp. Việc thực hiện qui định đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là NCTN trong một số trường hợp chưa đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS qui định. Chẳng hạn, bị can, bị cáo khi được phổ biến quyền và nghĩa vụ, họ và người đại diện hợp pháp có ý kiến không mời người bào chữa nữa; cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã lập biên bản về việc này và coi đó là sự từ chối người bào chữa đồng thời không gửi văn bản yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình [22, Điều 57] Hoặc có trường hợp bị can, bị cáo là NCTN không mời người bào chữa thì người tiến hành tố tụng gợi ý để đại diện hợp pháp của họ nhận bào chữa, thủ tục này vẫn được Tòa án chấp nhận và đưa vụ án ra xét xử.
Thứ hai, hệ thống văn bản qui định về chính sách đối với người chưa thành niên phạm tội còn chưa thống nhất, có điều luật còn nhiều bất cập trong quá trình thực hiện và chưa giải thích đầy đủ nên gây lúng túng và nhiều cách hiểu khác nhau. Ví dụ như:
- Hội thẩm nhân dân là giáo viên đã nghỉ hưu có thể tham gia thành phần hội đồng xét xử đối với bị cáo chưa thành niên theo qui định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự được hay không?
- Tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên biến đổi theo thời gian và tiến trình tố tụng. Do vậy, việc áp dụng các chế định đối với người chưa thành niên sẽ như thế nào trong trường hợp khi bị bắt, khởi tố, truy tố bị can là người chưa thành niên nhưng khi chuyển sang giai đoạn xét xử và thi hành án bị cáo là người thành niên?