Tồn Tại Của Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng


Công nghệ khai thác, xử lý thông tin ngày càng hoàn chỉnh, đã thiết lập được kho dữ liệu thông tin về khách hàng năm 2008, Kho dữ liệu có khoảng 6.000 hồ sơ khách hàng. Từ năm 2009 ­ 2011 kho dữ liệu tăng đến gần 100 nghìn hồ sơ khách hàng, tăng trưởng liên tục. Đến nay kho dữ liệu của Trung tâm TTTD tăng lên gần 100 nghìn hồ sơ khách hàng, tốc độ tăng

trưởng nhanh (bình quân trên 100%).

Thiết lập được hệ

thống thông tin

ngày càng mở rộng với đầu mối là Trung tâm TTTD và các TCTD. Hệ

thống TTTD đến nay đã theo dõi được khoảng 79% số dư nợ cho vay nền kinh tế của các TCTD. Các NHTM đã có chuyển biến cơ bản về nhận thức trong hoạt động TTTD và đều thống nhất cho rằng hoạt động TTTD không thể thiếu đối với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay đã có 100% NHTM NN tham gia hoạt động TTTD; có 1 NHTM cổ phần tham gia hoạt động TTTD, đạt 94%; có 2 ngân hàng liên doanh với nước ngoài tham gia hoạt động TTTD, đạt 100%; có 19 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia hoạt động TTTD, đạt 88%; Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng Tư nhân tham gia hoạt động TTTD đạt 100%.

Đối tượng thu thập thông tin mở rộng đến khách hàng cá nhân đã góp phần mở rộng tín dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa, phân bổ nguồn tín dụng một cách hợp lý. Từ đó góp phần mở rộng thị trường tín dụng chính thức và thu hẹp thị trường tín dụng không chính thức (tín dụng chợ đen, cho vay nặng lãi…) mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.

(4) Phục vụ công tác quản lý của Ngân hàng nhà nước

Hệ thống thông tin tín dụng đã thu thập, tổng hợp và cung cấp những thông tin chia sẻ gồm cả thông tin tích cực và thông tin tiêu cực, là nguồn thông tin rất quan trọng, đối với NHNN đã giúp ích rất nhiều trong quản lý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

giám sát hoạt động của TCTD. Cung cấp kịp thời thông tin về các doanh


Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào - 17

nghiệp có dư nợ lớn (vượt quá 10%, 25% vốn tự có của một TCTD) cho Thống đốc NHNN, Thanh tra ngân hàng, góp phần tăng cường công tác quản lý của NHNN đối với các TCTD. Báo cáo tổng hợp tình hình dư nợ các Công ty, ngành kinh tế, báo cáo tổng hợp tình hình tài chính của các công ty, nhà đầu tư nước ngoài… đều được Trung tâm TTTD tạo lập và

cung cấp kịp thời. Đối với TCTD nó một mặt góp phần ngăn ngừa hạn

chế rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, mặt khác với thông tin tích cực nó góp phần mở rộng thị phần, lựa chọn khách hàng tốt, giảm chi phí điều tra thông tin, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng tín dụng. Đồng thời góp phần vào những thành tựu chung của ngành ngân hàng

trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất

nước. Trung Tâm TTTD đã cung cấp thông tin phục vụ NHNN trong việc điều hành công tác tiền tệ, tín dụng, với mục tiêu tăng trưởng bền vững, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các TCTD.

TTTD góp phần làm thay đổi dần văn hóa tín dụng và nâng cao đạo đức kinh doanh của cả người vay và người cho vay. Vì người vay có ý định lừa đảo đã biết rằng ngân hàng có một hệ thống TTTD nên khó mà lừa đảo được. Thực tế hiện tượng lừa đảo, dùng một tài sản thế chấp vay nhiều nơi, vay TCTD này để trả TCTD khác đã bị phanh phui từ đó làm nản lòng những ý định xấu trong thị trường tín dụng.

(5) Tạo thành một kênh thông tin tín dụng tin cậy cho các TCTD

Tốc độ

khai thác sử

dụng sản phẩm thông tin tín dụng những năm

gần đây tăng mạnh. Nhiều tổ chức tín dụng đã xác định, báo cáo thông tin từ Trung tâm TTTD là cần thiết trước khi xem xét, quyết định cấp tín dụng. Chia sẻ thông tin mang lại hiệu quả cả về thời gian, chi phí và ngăn ngừa rủi ro. Thông tin tiêu cực giúp các TCTD tránh được rủi ro. Hiệu quả mang


lại của thông tin tín dụng chưa thể cân đo đong đếm bằng tiền riêng biệt, nhưng thật đáng kể. Sản phẩm báo cáo quan hệ tín dụng khách hàng vay:

Năm 2005, Trung tâm TTTD mới chỉ cung cấp được 1.905 bản thông tin

bằng văn bản. Năm 2008 ­ 2010, đã cung cấp thông tin điện tử tăng gấp 2

lần (từ 5.238 tăng lên 11.571 bản). Năm 2011 ­ 2013 cũng tăng lên (từ

15.926 tăng lên 29.758 bản), chất lượng thông tin ngày càng nâng cao rõ rệt và đảm bảo quyền lợi cho khách hàng vay và TCTD.

2.3.2. Những mặt còn tồn tại

Mặc dù hệ thống TTTD ngân hàng CHDCND Lào đã có những bước phát triển đáng kể sau 10 năm thành lập, nhưng thực tế cho thấy vẫn còn bất cập, tồn tại cả chủ thể thực hiện hoạt động TTTD (Trung tâm TTTD) và cả đối với các thành viên tham gia hệ thống TTTD.

2.3.2.1. Tồn tại của hệ thống thông tin tín dụng

­ Thu thập dữ

liệu đầu vào chưa tốt, chủ

yếu mới thu thập được

thông tin dư nợ, tình hình tài sản đảm bảo, bảo lãnh, còn các thông tin về tài chính, phi tài chính, tình hình tài chính của khách hàng vay thì thu thập chưa bảo đảm yêu cầu. Việc phối hợp với các bộ, ngành như cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, cơ quan thuế, cơ quan tư pháp… không được tốt nên chưa có đủ dữ liệu đầu vào cần thiết cho hoạt động TTTD.

­ Việc xử lý thông tin nhìn chung còn đơn điệu, chưa có các kỹ thuật

phân tích tiên tiến, chưa có các hoạt động gia tăng như chấm điểm tín

dụng, thông tin cảnh báo, thông tin khách hàng có hiện tượng gian lận, khách hàng vi phạm tín dụng, thanh toán…

­ Sản phẩm cung cấp ra còn nghèo nàn, tuy đã thiết lập được gần 10

sản phẩm cung cấp ra, nhưng thực tế

chưa đáp

ứng được nhu cầu của

người sử dụng thông tin, sản phẩm cung cấp ra cũng chưa có chất lượng


mang tính cập nhật nhất. Chưa có sản phẩm đặc thù phục vụ riêng cho yêu cầu của từng loại hình TCTD.

­ Đối tượng được phép sử

dụng TTTD bị

thu hẹp trong phạm vi

ngành ngân hàng, ngoài ra các tổ chức và cá nhân khác có nhu cầu chưa

được tiếp cận sử dụng TTTD. Quyền lợi cá nhân của khách hàng có hồ sơ tại kho dữ liệu TTTD chưa được đảm bảo. Họ chưa được phép tiếp cận và sửa đổi thông tin sai lệch trong bộ hồ sơ của mình.

­ Số lượng thông tin đầu vào có xu hướng tăng lên, nhưng chất

lượng thông tin ở một số TCTD chưa tốt, chưa chính xác, chưa kịp thời.

­ Chưa có biện pháp để đẩy mạnh thông tin đầu ra, vì chưa có thông tin tiện ích cho các đơn vị sử dụng thông tin.

­ Hệ thống tự động hóa trả lời tin chưa được hoàn thiện.

­ Phí dịch vụ thông tin chưa hợp lý, để có cơ chế khuyến khích các TCTD khai thác sử dụng nhiều thông tin.

­ Một số TCTD, chưa coi trọng TTTD trong quy trình cho vay, mở

rộng tín dụng nên ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.

­ Công nghệ thiết bị chưa đồng bộ, tương xứng, đáp ứng với nhu cầu của công tác phòng ngừa và quản trị rủi ro tín dụng.

2.3.2.2. Tồn tại của các tổ chức tín dụng

­ Một số ngân hàng thiếu sự chỉ đạo tập trung đối với các chi nhánh

của mình, do vậy việc báo cáo thông tin tập trung về

hội sở

chính chưa

nghiêm túc, không báo cáo đầy đủ các chỉ tiêu thông tin, hầu hết chỉ báo cáo biểu No:09, chưa thực hiện tốt các biểu báo cáo tài chính doanh nghiệp

nghiêm túc (đặc biệt các NHTM nhà nước). Nguyên nhân chủ yếu do

NHTM nhà nước có quá nhiều chi nhánh, có nhiều loại khách hàng, việc xây dựng chương trình để báo cáo mới chỉ đáp ứng yêu cầu báo cáo Biểu


No:09 là chủ yếu, chưa có chương trình báo cáo số liệu từ các biểu còn lại. Do vậy, việc báo cáo cho Trung Tâm TTTD gặp rất nhiều khó khăn.

­ Về thời gian báo cao thông tin còn chưa đều, chưa thực hiện đúng quy định là phải báo cáo chậm nhất không quá 7 ngày làm việc khi có phát sinh quan hệ tín dụng

­ Chưa cập nhật đủ thông tin về “Tài sản thế chấp”.

­ Chất lượng thông tin chưa được tốt, thông tin đôi khi còn thiếu

chính xác, thiếu tính thời sự, do một số

TCTD chưa báo cáo đầy đủ

các

biểu báo cáo thông tin về dư nợ, nợ quá hạn, tài sản đảm bảo, qua đó mà các thông tin cung cấp ra chưa thật phong phú nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng của các NHTM.

2.3.2.3. Tồn tại của Trung tâm thông tin tín dụng

­ Trung tâm TTTD chưa có nhiều biện pháp triệt để đối với các

TCTD thực hiện chưa tốt việc báo cáo thông tin; ý thức chấp hành của một số NHTM đối với chế độ thông tin báo cáo chưa tốt. Đây là một vấn đề cản trở lớn tới việc nâng cao chất lượng thông tin của Trung tâm TTTD.

­ Chưa có những biện pháp chỉ đạo sát sao đối với các chi nhánh

NHNN, việc quản lý nghiệp vụ với các chi nhánh chưa thực sự đi vào nề nếp.

­ Các biểu báo cáo được xây dựng chưa hợp lý và đầy đủ, dẫn đến việc thực hiện báo cáo thông tin tại các TCTD gặp rất nhiều khó khăn.

­ Chưa xây dựng cơ chế thu phí cho các chi nhánh NHNN thực hiện cung cấp thông tin cho các đơn vị trên địa bàn. Điều này làm cho việc thu phí thông tin không đồng bộ, quản lý thông tin không thống nhất.

­ Chưa đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo về hoạt động

TTTD, lợi ích của TTTD, do vậy còn có những chi nhánh TCTD chưa hiểu về hoạt động TTTD.


­ Chưa tổ chức thường xuyên việc bồi dưỡng nghiệp vụ TTTD cho các cán bộ chi nhánh NHNN và các TCTD.

­ Việc thu thập thông tin ngoài ngành thực hiện không theo đúng kế

hoạch, làm cho tiến trình phân tích, xử

lý thông tin về

doanh nghiệp tại

Trung tâm TTTD thực hiện chưa đạt yêu cầu. Việc phân tích đánh giá tín

dụng doanh nghiệp và phân loại tín dụng chưa hoàn thiện được dự chương trình phân tích và chưa phổ cập rộng rãi trong hệ thống.

án,

­ Chất lượng thông tin cung cấp ra đôi khi chưa thật đảm bảo, thông tin dư nơ còn thấp hơn so với số dư thực tế, do chưa thu thập được hết khoản vay tại nhiều NHTM. Thông tin về tài sản đảm bảo tiền vay cũng còn chưa đầy đủ và thông tin tổng hợp theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế chưa có.

­ Việc mua thông tin ngoài ngành chưa thường xuyên nên chưa có đủ

các thông tin về tài chính của doanh nghiệp ngoài quốc doanh; doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thông tin kinh tế khác và phân tích về đầu tư theo ngành nghề, vùng, miền...

2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại

2.3.3.1. Nguyên nhân tồn tại của hệ thống TTTD

Có nhiều nguyên nhân làm cho hoạt động TTTD còn nhiều bất cập, trong đó có một số nguyên nhân chính sau đây:

­ Chưa có sự phối hợp của các bộ, ngành trong việc chia sẻ thông tin dẫn đến khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng thông tin đầu vào.

­ Tính công khai, minh bạch hóa hoạt động của các doanh nghiệp chưa cao, chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa

có chế

tài cụ

thể

cho những trường hợp vi phạm, hoạt động kiểm toán,

kiểm soát nội bộ chưa phát triển, ý thức của doanh nghiệp trong việc báo


cáo tài chính chưa cao, có khi doanh nghiệp có tới 2 bảng cân đối kế toán để sử dụng cho những mục đích khác nhau. Để dễ tiếp cận với nguồn tín dụng, các doanh nghiệp đã lập báo cáo tài chính ma, có số liệu sai lệch thực tế.

­ Chưa chú trọng đến khâu tuyên truyền, quảng bá sản phẩm TTTD, đặc biệt là lợi ích hoạt động TTTD trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.

­ Các TCTD chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thông tin và

khai thác sử dụng.

dụng thông tin góp phần hạn chế

rủi ro cho hoạt động tín

­ Chưa có một hệ thống mã khách hàng chuẩn thống nhất trong toàn quốc, góp phần tạo thuận lợi và rút gắn thời gian tìm kiếm thông tin về khách hàng tại các tổ chức, cơ quan, bộ ngành khác nhau.

­ Chưa chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm TTTD dựa vào nhu cầu của người sử dụng.

­ Chưa có một chế tài riêng cụ thể với những trường hợp vi phạm chế độ báo cáo, khai thác và sử dụng TTTD.

­ Nguồn nhân lực tại hệ thống TTTD ngân hàng CHDCND Lào còn thiếu cả về số lượng và yếu về trình độ chuyên môn và các khả năng phụ trợ khác cho công việc (ngoại ngữ, tin học…), chính điều này làm cho việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin trong những thời gian qua còn nhiều bất cập và hạn chế.

2.3.3.2. Nguyên nhân chủ yếu của các TCTD:

­ Một số lãnh đạo TCTD chưa thực sự quan tâm và chỉ đạo đơn vị

nghiêm túc thực hiện nghiệp vụ của hoạt động TTTD.

TTTD, chưa thấy được tầm quan trọng

­ Sự kết hợp giữa cán bộ tín dụng (là người sử dụng tin) và người khai thác thông tin chưa được chặt chẽ. Nhiều cán bộ tín dụng chưa thấy


hết sự cần thiết phải trực tiếp khai thác và có nhu cầu sử dụng TTTD. Mặt khác còn có tâm lý ngại hỏi, chưa có thói quen sử dụng tin.

­ Nhiều chi nhánh NHTM chưa có cán bộ chuyên trách đảm nhiệm công tác TTTD, hoặc thường xuyên thay đổi cán bộ, cán bộ chưa được đào tạo về nghiệp vụ TTTD.

­ Trang thiết bị và chương trình phần mềm, mạng máy tính phục vụ cho nghiệp vụ TTTD tại các NHTM chưa đồng bộ còn hạn chế, chưa đảm bảo việc cung cấp, khai thác sử dụng TTTD.

­ Trong biểu báo cáo thông tin còn có một số chi tiết khó thu thập

hoặc cơ sở dữ liệu hiện có của NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu.

­ Một số ngân hàng chưa thực sự coi trọng chất lượng tín dụng, họ chỉ chú trọng hoàn thiện hồ sơ thủ tục tín dụng để an toàn cho cá nhân.

­ Một số ngân hàng vì đảm bảo hệ thống mạng nội bộ nên có quy định không cho các chi nhánh kết nối trực tiếp mạng hoặc chỉ cho một số máy kết nối mạng do vậy đã gây nhiều khó khăn cho các chi nhánh TCTD trong việc truy cập vào mạng hệ thống TTTD để báo cáo và khai thác thông tin.

­ Các NHTM chưa chủ động phản ánh những vướng mắc với Ban

lãnh đạo NHNN và Trung tâm TTTD để khắc phục kịp thời.

2.3.3.3. Nguyên nhân của Trung tâm TTTD

­ Khung pháp lý hoạt động cho Trung tâm TTTD chưa đồng bộ, mới

chỉ

xây dựng song quy chế

hoạt động TTTD trong ngành, còn nhiều quy

chế khác bổ trợ cho hoạt động này chưa có, do vậy rất khó khăn trong công tác chỉ đạo điều hành hoạt động TTTD trong cả nước.

­ Trung tâm TTTD mới thành lập không lâu, quá thiếu cán bộ, lại

đồng thời phải triển khai đồng bộ

giải pháp tổ

chức bộ

máy, nâng cấp

công nghệ, xây dựng cơ chế nghiệp vụ, cán bộ làm công tác TTTD chưa

Xem tất cả 206 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí