Đối Với Sở, Ban, Ngành Và Chính Quyền Địa Phương


sách đối với các đối tượng ưu đãi, có sự giám sát chặt chẽ và chế tài phù hợp đúng chế độ, đúng đối tượng để phát huy tốt nhất vai trò của chính sách ưu đãi, hạn chế những mặt tác động tiêu cực của chính sách ưu đãi như sự ỷ lại, trông chờ vào chính sách của nhà nước mà không có ý chí vươn lên. Bổ sung các ưu đãi về lãi suất đối với các mô hình cho vay theo chuỗi giá trị, mô hình liên kết, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để hướng tới nền nông nghiệp phát triển hiện đại và hỗ trợ cải thiện đời sống người nông dân.

- Chính phủ cần chỉ đạo các ban, ngành và địa phương trong việc đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, nhất là đối với các vườn, rẫy mà người dân tự khai phá và đã sử dụng trong nhiều năm, nhanh chóng giải quyết các vướng mắc, sai sót về giấy tờ, thủ tục có liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để người dân có đủ điều kiện vay vốn theo quy định.

- Nhà nước thúc đẩy nhanh sự hình thành các cơ quan định giá tài sản, trung tâm thông tin tín dụng, trung tâm tư vấn tín dụng.

Hiện nay TSĐB cho vay hầu như bị ngân hàng đánh giá thấp hơn giá trị hợp lý của nó, một phần bắt nguồn từ ý định chủ quan của ngân hàng, một phần do trình độ thẩm định, đánh giá tài sản của cán bộ ngân hàng còn hạn chế, hơn nữa các căn cứ định giá giữa ngân hàng lại không thống nhất nên gây khó khăn cho khách hàng vay vốn. Vì vậy sự hình thành trung tâm định giá tài sản có sự quản lý, điều chỉnh thống nhất của nhà nước là vô cùng cần thiết.

- Đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thực hiện các thủ tục đầu tư phù hợp với quy định của pháp luật. Đẩy nhanh việc đưa vào hoạt động của các quỹ bảo lãnh của Nhà nước, đặc biệt là Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, nhằm tạo thêm cơ chế hỗ trợ về bảo đảm tiền vay cho các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có nhu cầu sử dụng vốn vay của các NHTM. Bố trí thanh toán đầy đủ và kịp thời các khoản hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho các ngân hàng và các khách hàng vay vốn (số tiền lãi không thu được trong thời gian


khoanh nợ, số nợ phải xoá cho khách hàng gặp rủi ro, tiền hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp, tiền hỗ trợ chênh lệch lãi suất của các dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao…).

3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước

- NHNN cần đóng vai trò quản lý vĩ mô đưa ra các chiến lược định hướng mang tính khái quát và chung nhất cho các NHTM. NHNN thực hiện việc quản lý giám sát chặt chẽ hoạt động của các NHTM song cũng cần đảm bảo tính độc lập tự chủ, để các NHTM mềm dẻo linh hoạt thích nghi với thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 234 trang tài liệu này.

- NHNN cần có các giải pháp khuyến khích, thu hút các TCTD tham gia nhiều hơn vào cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn bằng các chính sách hỗ trợ đối với các TCTD như: giảm dự trữ bắt buộc, tăng cường tái cấp vốn cho TCTD tham gia cho vay trong lĩnh vực này, kể cả tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn của họ còn thấp. Thị trường tài chính nông thôn với chi phí cho vay lớn trong khi số tiền của từng món vay nhỏ nên lợi nhuận đem lại cho các tổ chức tín dụng không cao, do đó NHNN cần ban hành thêm chính sách hỗ trợ trong việc giảm các chi phí của ngân hàng khi cấp tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn như xem xét miễn, giảm phí truy cập thông tin CIC đối với một số trường hợp cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là các món vay có giá trị thấp chẳng hạn từ 100 triệu đồng trở xuống.

Đối với các TCTD đã và đang thực hiện cho vay lĩnh vực này, NHNN nên tiếp tục chỉ đạo các TCTD này đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, điều chỉnh linh hoạt các điều kiện cho vay, điều kiện về tài sản thế chấp phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương. Bên cạnh đó, chỉ đạo các TCTD cần tăng cường tiếp cận doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp, phối hợp với ban, ngành, đoàn thể tại địa phương lựa chọn mô hình sản xuất có hiệu quả để cho vay, kiểm soát vay và thu nợ, gắn đầu tư tín dụng với việc thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, đặc biệt đối với các xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới.

Tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng nông thôn mới các tỉnh Nam Trung Bộ - 25

- Để khuyến khích TCTD mạnh dạn hơn trong việc phát triển thị trường tài


chính nông thôn, chính là vấn đề giảm thiểu rủi ro đối với các khoản vay của TCTD trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh sản phẩm nông nghiệp. Trong khi, khu vực Nam Trung Bộ lại là một địa phương với ngành nông nghiệp chiếm đa số lại bị ảnh hưởng nhiều của thiên tai hạn hán, lũ lụt và dịch bệnh. Vì vậy, bảo hiểm nông nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người nông dân, góp phần đảm bảo nền nông nghiệp của tỉnh phát triển ổn định, bền vững… Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động bảo hiểm nông nghiệp được triển khai thí điểm theo Quyết định số 315/QĐ-TTG ngày 1/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ vẫn chưa hoạt động hiệu quả với quy mô nhỏ và phân tán chưa tương xứng với vị thế của nền nông nghiệp nước nhà, còn nhiều vấn đề bất cập và chưa được triển khai rộng rãi.

Do đó, để các TCTD tham gia vào thị trường tài chính nông thôn an toàn, NHNN cần phải tăng cường phối hợp với cơ quan các cấp như Bộ Tài chính, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn… về việc phát triển bảo hiểm nông nghiệp. Qua đó, hạn chế những rủi ro đối với việc cho vay nông nghiệp, nông thôn của TCTD. Từ đó, khuyến khích TCTD tham gia cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn.

- Tổ chức triển khai các văn bản đã ban hành một cách sâu rộng, tới tận cơ sở, cán bộ ngân hàng, tổ chức đào tạo, tập huấn văn bản nghiệp vụ.

- NHNN cũng cần tiếp tục thu hút các nguồn vốn, tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ người dân của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ phân phối qua ngân hàng.

- NHNN cần nâng cao chất lượng hoạt động và tăng cường cơ sở vật chất cho trung tâm thông tin tín dụng để thông tin được thường xuyên kịp thời cập nhật, cung cấp cho NHTM. Nghiên cứu và xây dựng một hệ thống các chỉ số phản ánh chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng như một công cụ để quản lý quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng.

- Trong điều kiện tổ chức tín dụng chính thức không đủ bao phủ đáp ứng nhu cầu của người dân tại các địa bàn nông thôn, vùng sâu vùng xa thì việc mở rộng dịch vụ tài chính phi chính thức là cần thiết. Tuy nhiên, để hạn chế mặt tiêu cực của hoạt động tín dụng phi chính thức, phát huy hiệu quả tích cực, NHNN cần phải tăng


cường thanh tra, giám sát tính minh bạch của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng hoạt động trên địa bàn nông thôn, miền núi đặc biệt chú ý đến những khách hàng nhỏ lẻ và có thu nhập thấp. Xây dựng các quy tắc, chuẩn mực điều chỉnh hoạt động cụ thể của tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính quy mô nhỏ, các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; xây dựng nguyên tắc giám sát đối với các tổ chức này và đảm bảo quy định thanh toán và giám sát của NHNN được triển khai một cách hiệu quả và đồng bộ.

- Tích cực hỗ trợ các TCTD thực hiện các thủ tục bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay của các dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; hỗ trợ các ngân hàng trong việc quản lý tài sản bảo đảm tiền vay cũng như xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ khi khoản vay gặp rủi ro.

3.4.3. Đối với Sở, ban, ngành và chính quyền địa phương

- Ủy ban nhân dân các tỉnh cần chỉ đạo kịp thời đối với Sở, ban, ngành địa phương chủ động xây dựng dự án, phương án, mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương để làm cơ sở cho TCTD đầu tư vốn.

- Thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách và tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Tập trung các nguồn lực để tăng cường nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Ngoài nguồn vốn bổ sung từ ngân sách địa phương hàng năm, UBMTTQ Việt Nam tỉnh, các tổ chức đoàn thể, chính trị - xã hội, các sở, ban, ngành, các doanh nghiệp và cá nhân trên địa bàn tỉnh gửi các khoản tiền nhàn rỗi, các quỹ chưa sử dụng của đơn vị vào Ngân hàng Chính sách xã hội để bổ sung nguồn vốn cho vay.

- Các tỉnh Nam Trung Bộ cần khẩn trương triển khai đồng bộ chính sách đã được Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn như Nghị định 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về


cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 về bảo hiểm nông nghiệp; Nghị định 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 về nông nghiệp hữu cơ; Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 55 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

- Các tỉnh Nam Trung Bộ cần khẩn trương triển khai đồng bộ chính sách đã được Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích yền truyền, phổ biến, nâng cao hiểu biết của người nông dân về đặc điểm và yêu cầu làm ăn trong thời kỳ hội nhập, tập cho nông dân quen với việc tuân thủ luật, quy ước, thông lệ quốc tế, thay đổi nhận thức, tư duy, dần bỏ thói quen sản xuất tự phát nhỏ lẻ sang nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, có hiệu quả cao, mang tính bền vững, làm ăn theo hợp đồng, theo liên kết hiệp hội. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc “dồn điền đổi thửa”; nhân rộng các mô hình thí điểm tích tụ ruộng đất có sự liên kết với doanh nghiệp về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hàng hóa tập trung và gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; bên cạnh đó, cần đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp đủ sức cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho nông dân địa phương phát triển thương hiệu từ các loại cây con đặc thù của tỉnh. Khuyến khích thành lập các hợp tác xã làm ăn có hiệu quả nhằm phát huy liên kết và quản lý.

- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn như: hệ thống giao thông, thủy lợi, lưới điện, tiếp tục nâng cao tỷ lệ cơ giới hóa các khâu sản xuất nhằm giải phóng sức lao động, giảm chi phí đầu tư, tăng hiệu quả kinh tế, từng bước hình thành nền nông nghiệp hiện đại, chú trọng đầu tư vào công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch và quản lý chất lượng sản phẩm, tăng cường triển khai việc xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường…, sản xuất nông nghiệp theo mô hình công nghệ cao và quy mô lớn để sản xuất ra khối lượng


hàng hóa có thể đáp ứng được nhu cầu, đồng thời khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nông sản của tỉnh đủ sức cạnh tranh với hàng hóa trong nước và nước ngoài. Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và người dân thông tin về thị trường, thu thập thông tin, nghiên cứu và đưa ra các dự báo về cung cầu thị trường trong nước và thế giới về các mặt hàng nông sản để người dân có thể có quyết định đầu tư sản xuất đúng đắn. Tăng cường quan hệ ký kết mở rộng thị trường, liên kết vùng để có thể giúp người nông dân tiêu thụ sản phẩm một cách dễ dàng.

- Tăng cường các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện tối đa cho người dân và tổ chức kinh tế vay vốn tín dụng phục vụ phát triển kinh tế, chính sách hỗ trợ về giống, cây trồng, cơ giới hóa, khuyến nông…; đồng thời, khuyến khích cho nông dân và doanh nghiệp thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ, tạo điều kiện thu hút và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đầu tư sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản và ngành nghề giải quyết lao động nông thôn.

- Tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn các tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, tổ chức đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã bằng nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với nhu cầu và tinh thần tự nguyện của mỗi cá nhân, hộ gia đình; củng cố và thành lập mới các hợp tác xã, nhất là các loại hình hợp tác xã sản xuất, dịch vụ cho sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, thực sự là “đầu tàu”, “bà đỡ” cho người nông dân. Nâng cao năng lực tổ chức đánh bắt xa bờ kết hợp với đầu tư hạ tầng nuôi trồng thủy sản đáp ứng được yêu cầu của thâm canh, đồng thời phát triển chế biến, dịch vụ hậu cần nghề cá. Phát triển các hợp tác xã đa năng với vai trò thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất và chuyên môn hoá sâu theo hướng thương mại hoá trong nông nghiệp. Hợp tác xã vừa cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho nông dân như: tín dụng, bảo hiểm rủi ro, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, sử dụng tập thể máy móc thiết bị trên nguyên tắc tương hỗ là chính. Hợp tác xã nông nghiệp huy động vốn từ xã viên có tiền nhàn rỗi sau đó cho các xã viên có nhu cầu vay mượn để sản xuất kinh


doanh, hợp tác xã cũng là nơi tiếp nhận vốn cho vay và hỗ trợ lãi suất từ Chính phủ nhằm đảm bảo cung cấp nguồn vốn dài hạn với lãi suất thấp cho xã viên sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, hợp tác xã nông nghiệp còn thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hoá đơn, bảo lãnh pháp lý, giao dịch trao đổi trong nước và giao dịch ngoại hối.

- Cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp và hội đoàn thể chính trị - xã hội cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác thống kê, rà soát lại đối tượng chính sách, phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách, vận động, tuyên truyền, hướng dẫn người nghèo sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả, tạo dựng thói quen tiết kiệm, nâng cao ý thức trả nợ, lồng ghép có hiệu quả các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với hoạt động tín dụng chính sách. Người dân nông thôn với điều kiện thông tin hạn chế, khả năng nắm bắt thông tin chậm do đó tổ chức chính quyền xã, thôn và các hội đoàn thể địa phương cần phải giải thích, tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về chính sách, thông tin vay vốn của các ngân hàng trên địa bàn để người nông dân đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người kịp thời nắm bắt được chủ trương, có những hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về chính sách vay vốn của ngân hàng và quy định của TCTD về cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, từ đó hộ vay có nhận thức hơn trong việc vay vốn cũng như lựa chọn TCTD phù hợp với điều kiện thực tế của từng khách hàng.

- Chính quyền địa phương tại các thôn, bản cũng cần thường xuyên tổ chức các cuộc họp trưng cầu ý dân, kết hợp với ngân hàng để có thể biết được nhu cầu, nguyện vọng, khó khăn của các khách hàng, từ đó đề ra các giải pháp hỗ trợ.

- Cán bộ Hội, đoàn thể các cấp tăng cường xây dựng năng lực bao gồm cả nghiệp vụ ủy thác và kiến thức tổ chức quản lý để họ có thể điều phối tốt hoạt động thành lập tổ, tổ chức tốt việc tập huấn cho Hội đoàn thể cấp dưới và các tổ vay vốn. Chính quyền địa phương và các hội, đoàn thể các cấp cần phối hợp chặt chẽ với TCTD tham gia thị trường tín dụng nông thôn để tập huấn nghiệp vụ ủy thác cho vay đối với cán bộ chuyên trách của tổ Vay vốn, đặc biệt là việc phối hợp tốt trong


công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay. Các cán bộ nhận ủy thác cần giám sát chặt chẽ các tổ Vay vốn do Hội mình quản lý để đảm bảo việc đôn đốc trả nợ gốc và thu tiền lãi vay được thực hiện một cách có hiệu quả, cần tích cực giúp đỡ các TCTD trong việc thu hồi, giải quyết các khoản nợ quá hạn, nợ xấu.

- Các tổ chức xã hội phối hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trung tâm khuyến nông, khuyến ngư tổ chức các buổi trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sản xuất lẫn nhau của các hộ gia đình. Đồng thời, các thành viên của hội có thể hỗ trợ vốn cho nhau để sản xuất như: cây giống, con giống…Đối với những hộ làm ăn có hiệu quả cần chia sẻ kinh nghiệm cho các thành viên còn lại để có thể tăng thu nhập và cải thiện mức sống. Việc hội phụ nữ, hội nông dân… giúp đỡ các hộ vay sử dụng vốn hiệu quả thực sự có ý nghĩa lớn bởi thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, nhiều hộ vay (đặc biệt là hộ nghèo, hộ đặc biệt khó khăn…) không biết cách làm ăn (kiến thức kỹ thuật và kiến thức quản lý của hộ vay rất hạn chế) nên sử dụng vốn không hiệu quả, không có lãi nên không tích lũy được tiền trả nợ gốc.

- Các cán bộ của các hội đoàn thể, cán bộ thôn xã cần có ý thức trách nhiệm, công tâm, sáng suốt trong việc xác nhận đúng thực tế, đúng đối tượng được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước, đủ điều kiện để được vay vốn để đảm bảo vốn vay được chuyển tới đúng đối tượng thụ hưởng và đảm bảo việc thu hồi vốn cho các TCTD. Nâng cao vai trò, trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của cấp ủy, trong công tác thống kê, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo để tạo điều kiện cho các đối tượng này kịp thời vay vốn.

- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công Thương cùng chủ động tích cực phối hợp để có giải pháp hỗ trợ vốn đầu tư cũng như công tác quy hoạch về nông nghiệp, nông thôn, công tác sản xuất, chế biến, thu mua nông sản, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nông dân tiếp cận vốn trong chuỗi giá trị toàn cầu của sản xuất nông nghiệp Việt Nam, giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp được tăng lên, tạo tiền đề nâng cao thu nhập, đời sống của nông dân và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng mô hình cung cấp đầu vào cho ngành nông nghiệp, đảm bảo chất lượng hàng hóa, giá cả phù hợp, kịp thời vụ, để nông dân yên tâm đầu tư vào sản

Xem tất cả 234 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí