Thực Trạng Công Tác Quản Lý Tài Chính Theo Cơ Chế Tự Chủ, Tự Chịu Trách Nhiệm Tại Ktnn

chức. Các cơ quan trung ương hầu hết đã xây dựng cơ chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý tài sản công nên có điều kiện để quản lý, sử dụng kinh phí hiệu quả, tiết kiệm.

Từ kinh ngiệm quản lý tài chính của các cơ quan trong và ngoài nước nêu trên có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ như sau:

Thứ nhất: Để chủ động sử dụng kinh phí tự chủ được giao, tiết kiệm và có hiệu quả, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có trách nhiệm xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ cho cán bộ, công chức trong cơ quan thực hiện, Kho bạc nhà nước kiểm soát chi. Khi xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ phải căn cứ vào chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, tình hình thực hiện của các Vụ, Cục, Phòng, Ban trong thời gian qua, khả năng nguồn kinh phí được giao để quy định. Mức chi, chế độ chi, tiêu chuẩn định mức trong Quy chế chi tiêu nội bộ không được vượt quá chế độ, định mức, tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Thứ hai: Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực quy định của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể về quản lý, sử dụng kinh phí chi thường xuyên của ngân sách nhà nước, bảo đảm chi ngân sách nhà nước tiết kiệm, hiệu quả. Giảm tần suất và thắt chặt các khoản kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, công tác phí; phấn đấu tiết kiệm 12% so với dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt đối với các khoản kinh phí chi hội nghị, hội thảo, tọa đàm, họp, chi tiếp khách, khánh tiết, tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm. Đẩy mạnh sử dụng hình thức họp trực tuyến trong chỉ đạo điều hành và xử lý các công việc trong ngành; thực hiện lồng ghép các nội dung, vấn đề, công việc cần xử lý để kết hợp các cuộc họp với nhau một cách hợp lý bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả.

Thứ ba: các nước trên đều đã áp dụng quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra. Công tác lập dự toán được phân chia chi tiết theo từng chương trình, từng Bộ, nguồn vốn và khoản chi, kèm theo bản thuyết minh chi tiết đến từng hạng mục chi cụ thể, kèm theo kế hoạch cung cấp dịch vụ công cộng (số lượng, mức độ cung cấp, đối tượng thụ hưởng,..), quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, bất cứ khoản chi nào muốn chi đều phải có giải trình cụ thể chi vào mục đích gì và hiệu quả sử dụng đến đâu. Bên cạnh

đó, trong quá trình thẩm tra dự toán, có một cơ quan ngân sách độc lập để làm một bản dự toán đối chiếu với bản dự toán ban đầu. Đây là một phương thức quản lý tiên tiến đã được nhiều nước trên thế giới tiếp cận, cả những quốc gia phát triển và những quốc gia đang phát triển. Phương thức này cho phép các nhà quản lý tại các cơ quan HCNN chủ động hơn trong điều hành ngân sách, đồng thời phải chịu trách nhiệm về đầu ra và kết quả. Trong khi đó, tại Việt Nam, Bộ Tài chính chính là đơn vị trực tiếp thẩm tra, phân bổ dự toán cho các đơn vị cùng cấp, tổng hợp báo cáo Chính phủ trình Quốc hội, Bộ Tài chính, không có đơn vị độc lập nào thẩm tra dự toán, quyết toán theo kết quả đầu ra của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ tư: qua phân tích cách thức quản lý tài chính tại Singapore và Hoa Kỳ nhận thấy các nước đó đều rất coi trọng công tác kiểm toán, kiểm tra, giám sát và xây dựng chế tài xử lý vi phạm trong quá trình quản lý, sử dụng NSNN tại các cơ quan nhà nước. Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách, các nước còn thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý vi phạm nghiêm khắc đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng NSNN đúng mục đích, có hiệu quả, đúng pháp luật. Ngoài việc kiểm toán tài chính về việc tuân thủ quy định, chế độ kế toán chặt chẽ, chế độ báo cáo tài chính, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ còn có một bước rất quan trọng đó là kiểm toán hoạt động đánh giá hiệu năng và hiệu quả chi tiêu ngân sách, phát hiện các khoản chi tiêu không hiệu quả và nguyên nhân của các khoản chi tiêu này, đánh giá việc thực hiện các quy định có liên quan về kiểm soát hiệu quả, hiệu năng của các Bộ cũng như hiệu quả của các chương trình của Chính phủ. Đây là một bước rất quan trọng mà hiện nay Việt Nam chưa làm được, ngân sách chi ra nhưng chưa đánh giá được chất lượng sử dụng ngân sách hiệu quả hay không, công khai, minh bạch trong quá trính sử dụng ngân sách đồng thời là trách nhiệm giải trình thuộc về cá nhân sẽ giúp ích cho các cơ quan HCNN sử dụng ngân sách có hiệu quả hơn.

Từ một đất nước có nền kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, trình độ quản lý còn nhiều bất cập, Việt Nam tham gia phát triển kinh tế thị trường, tiến lên là quốc gia đang phát triển. Trong khi yêu cầu về đầu tư từ NSNN để phát triển kinh tế xã hội của đất nước là vô cùng lớn, khả năng huy động từ GDP còn thấp. Vì vậy, việc chi tiêu từ nguồn NSNN gắn với kết quả là một đòi hỏi cấp thiết, yêu cầu Nhà nước ta cần tiếp tục đổi mới phương thức

lập, phân bổ dự toán NSNN đối với cơ quan nhà nước theo hướng dựa trên kết quả đầu ra, tăng cường trách nhiệm của đội ngũ CBCC, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy HCNN. Tuy nhiên, để thực hiện theo phương thức này, Việt Nam cần chuẩn bị rất chu đáo. Trước hết, cần thống nhất nhận thức chung của các cơ quan chức năng về phương pháp quản lý mới; đồng thời phải xây dựng được hệ thống các chỉ số đánh giá kết quả đầu ra và nâng cao năng lực cung cấp thông tin về tài chính ngân sách của các cơ quan.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Kết luận chương 1‌


Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Kiểm toán nhà nước - 6

Trong chương này tác giả đã hệ thống hóa một cách khái quát chung về cơ quan HCNN và những vấn đề liên quan đến công tác quản lý tài chính tại cơ quan HCNN, đặc biệt đã đi sâu nghiên cứu cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; quy trình lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách, các điều kiện đảm bảo thực hiện tốt cơ chế tự chủ tài chính trong các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng tìm hiểu nghiên cứu kinh nghiệm quản lý tài chính của Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông [39] và Singapore, Hoa Kỳ trong luận văn của tác giả Nguyễn Thị Hạnh [23], Nguyễn Thị Thanh Hoa [24]. Đây là những cơ sở khoa học để làm nền tảng cho những tìm hiểu thực tế trong chương tiếp theo của tác giả trong luận văn.


CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI KTNN‌


2.1 Tổng quan về KTNN‌

2.1.1 Sự hình thành và phát triển của KTNN‌

KTNN được hình thành và phát triển trên cơ sở Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan KTNN để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do NSNN cấp. KTNN thực hiện kiểm toán theo chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cung cấp kết quả kiểm toán cho Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác theo quy định của Chính phủ.

Tổ chức và hoạt động KTNN trong giai đoạn này được thực hiện theo Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 13/8/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KTNN thay thế Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ và bãi bỏ quy định tại các Chương I, II, III Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN ban hành kèm theo Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là một bước tiến quan trọng, xác định KTNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ, quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực theo

quy định của Chính phủ. Ngoài chức năng thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, Nghị định này còn chính thức xác nhận KTNN có chức năng kiểm toán tính tuân thủ pháp luật và tính kinh tế trong quản lý, sử dụng NSNN và tài sản công.

Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006, được sửa đổi ngày 24/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII. Đây là một đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, là công cụ pháp lý để tăng cường kiểm tra, kiểm soát các nguồn lực tài chính nhà nước. Luật KTNN xác định: KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Mục đích hoạt động KTNN nhằm phục vụ việc kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.

Hiện nay, tổ chức, hoạt động của Kiểm toán nhà nước đã được quy định tại Điều 118, chương X, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 28/11/2013.

2.1.2 Địa vị pháp lý‌

Địa vị pháp lý của KTNN được quy định tại Điều 118, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam “(1) KTNN là cơ quan do Quốc gội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; (2) Tổng KTNN là người đứng đầu KTNN, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng KTNN do luật định. Tổng KTNN chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội; (3) Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của KTNN do luật định”. [27]

2.1.3 Chức năng và nguyên tắc hoạt động‌

Kiểm toán nhà nước có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. [28]

Kiểm toán nhà nước hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; trung thực, khách quan, công khai, minh bạch. [28]

2.1.4 Nhiệm vụ và quyền hạn‌

a. Nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước


Quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện; tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Xem xét, quyết định việc kiểm toán khi có đề nghị của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan, tổ chức không có trong kế hoạch kiểm toán năm của KTNN; tham gia với các cơ quan của Quốc hội, của Chính phủ trong việc xem xét về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân sách cho chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trong quốc gia do Quốc hội quyết địn và quyết toán ngân sách nhà nước; tham gia với Quốc hội trong hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thương vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính khi có yêu cầu; tham gia với các cơ quan của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh khi có yêu cầu trong việc xây dựng và thẩn tra các dự án luật, pháp lệnh; báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán cho Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cung cấp kết quả cho Bộ Tài chính, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nơi kiểm toán và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật; giải trình kết quản kiểm toán với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội theo quy định của pháp luật; tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán, báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán theo quy định của pháp luật; tổ chức theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của KTNN; chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan

khác của Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán. Ngoài tra KTNN có nhiện vụ quản lý hồ sơ kiểm toán; giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Kiểm toán nhà nước; tổ chức công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của KTNN; tổ chức thi, cấp, thu hồi và quản lý chứng chỉ KTVNN; tổ chức thông tin tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về KTNN; xây dựng trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành chiến lược phát triển KTNN; thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. [28]

b. Quyền hạn của Kiểm toán nhà nước


Trình dự ánh luật, dự án pháp lệnh, dự án nghị quyết trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội theo quy định của luật pháp; yêu cầu các đơn vị được kiểm toán và tổ chức,cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho kiểm toán; yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN đối với sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; kiến nghị thực hiện biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do KTNN phát hiện; kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán về sai phạm trong báo cáo tài chính và sai phạm trong việc chấp hành pháp luật; đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật trong những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN; kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xư lý những vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán; đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vị cản trở hoạt động kiểm toán của KTNN hoặc cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho KTNN và KTVNN; trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết; được ủy thác thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; KTNN chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu, tài liệu và kết luận, kiến nghị kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện; kiến nghị

Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách pháp luật. [28]

2.1.5 Cơ cấu tổ chức‌

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định số lượng các đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước theo đề nghị của Tổng Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất gồm: Văn phòng Kiểm toán nhà nước, các đơn vị thuộc bộ máy điều hành, Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Văn phòng Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán nhà nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp có tài khoản và con dấu riêng. [28]

Các phó tổng KTNN

Cácđơn vị sự nghiệp

Các đơn vị tham mưu

Văn phòng KTNN

Trường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán

Vụ tổ chức cán bộ

Trung tâm tin học

Vụ tổng hợp

Báo kiểm toán

Vụ chế độ & KSCLKT

Vụ pháp chế

Cơ cấu tổ chức của KTNN gồm có 32 đơn vị trực thuộc, gồm: 08 đơn vị tham mưu, 08 đơn vị chuyên ngành,13 KTNN khu vực và 03 đơn vị sự nghiệp. Lãnh đạo KTNN gồm: Tổng KTNN và 05 Phó Tổng KTNN; lãnh đạo các đơn vị gồm: Vụ trưởng và 03 đến 04 phó Vụ trưởng; các phòng gồm: Trưởng phòng, 03 Phó trưởng phòng và các KTV, chuyên viên cơ cấu theo ngạch công chức.


Tổng KTNN

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 18/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí