phát triển của các cơ quan hành chính nhà nước đòi hỏi phải có các nguồn tài chính đảm bảo. Trong khi đó, hoạt động của các cơ quan đơn vị này thực hiện mục đích phục vụ lợi ích công cho xã hội, không đòi hỏi người nhận những dịch vụ và hàng hóa do tổ chức mình cung cấp phải trả tiền. Do đó, NSNN sẽ phải cấp phát kinh phí để duy trì hoạt động của các tổ chức công. Hiện nay, các tổ chức công được phép thu một số khoản thunhư phí, lệ phí và các khoản thu khác theo Luật pháp quy định nhằm bổ sung nguồn kinh phí hoạt động nhưng xét tổng thể thì nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu vẫn do Nhà nước cấp.
1.1.4 Quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước
Thuật ngữ “Quản lý” thường được hiểu đó là quá trình mà chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thích hợp nhằm điều khiển đối tượng quản lý hoạt động và phát triển nhằm đạt đến những mục tiêu đã định. Quản lý được sử dụng khi nói tới các hoạt động và các nhiệm vụ mà nhà quản lý phải thực hiện thường xuyên từ việc lập kế hoạch đến quá trình thực hiện kế hoạch đồng thời tổ chức kiểm tra. Ngoài ra nó còn hàm ý cả mục tiêu, kết quả và hiệu năng hoạt động của tổ chức.
Tài chính được thể hiện là sự vận động của các dòng vốn gắn với sự tạo lập và sử dụng những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội trong đó phản ánh các mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể.
Quản lý tài chính trong các cơ quan HCNN là quá trình áp dụng các công cụ và phương pháp quản lý nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tài chính trong các cơ quan HCNN để đạt những mục tiêu đã định. Đối tượng quản lý của Quản lý tài chính trong các cơ quan, đơn vị, đó chính là hoạt động tài chính của những cơ quan, đơn vị này. Đó là các mối quan hệ kinh tế trong phân phối gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong mỗi cơ quan, đơn vị. Cụ thể là việc quản lý các nguồn tài chính cũng như những khoản chi đầu tư hoặc các khoản chi thường xuyên của các cơ quan, đơn vị.
Để Quản lý tài chính trong các cơ quan, đơn vị; cơ quan, đơn vị sử dụng nhiều phương pháp cũng như nhiều công cụ quản lý khác nhau nhưng mục đích hướng đến của quản
lý tài chính trong các cơ quan, đơn vị cũng là tính hiệu quả trong hoạt động tài chính để nhằm đạt đến những mục tiêu đã định. [13]
Việc quản lý tài chính trong các cơ quan, đơn vị, trước hết phải phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể tại mỗi cơ quan, đơn vị. Nhưng dù cơ quan, đơn vị, đó thuộc loại hình nào thì việc quản lý tài chính cũng phải tuân thủ theo một số nguyên tắc quản lý tài chính như sau:
Đảm bảo các khoản chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị phải tuân theo chế độ, định mức tiêu chuẩn của Nhà nước quy định hoặc theo chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu nội bộ đã được duyệt để cơ quan, đơn vị đó hoạt động liên tục và hiệu quả.
Trách nhiệm quản lý tài chính của các cơ quan, đơn vị thuộc về cơ quan, đơn vị mà người đứng đầu chịu trách nhiệm ở đây chính là người lãnh đạo của cơ quan, đơn vị.
Trong quá trình quản lý tài chính tại các cơ quan, đơn vị cần phải tôn trọng dự toán năm được duyệt. Trong trường hợp cần điều chỉnh dự toán cần được cơ quan có thẩm quyền cho phép điều chỉnh để đảm bảo cho cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt những chức năng và nhiệm vụ của mình.
1.2 Quy trình và phân cấp quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước
1.2.1 Quy trình quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước
Quản lý tài chính trong các cơ quan, đơn vị được tiến hành theo chu trình bao gồm ba bước: bắt đầu từ việc quản lý việc lập dự toán thu chi tài chính, sau đó là quản lý việc chấp hành dự toán và cuối cùng là việc quyết toán thu chi tài chính. [29]
* Lập dự toán
Lập dự toán thu chi tài chính trong mỗi cơ quan, đơn vị là khâu mở đường quan trọng mang ý nghĩa quyết định đến toán bộ quá trình quản lý tài chính trong tổ chức. Bởi nó là cơ sở thực hiện và dẫn dắt toàn bộ quá trình thực hiện quản lý tài chính sau này của cơ quan, đơn vị.
Hàng năm, căn cứ vào các văn bản hướng dẫn lập dự toán của Bộ tài chính và hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên; căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được cấp có thẩm
quyền giao; căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ của năm trước và dự kiến cho năm kế hoạch; căn cứ vào các định mức, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của nhà nước quy định cơ quan, đơn vị lập dự toán thu và dự toán chi tài chính theo đúng chế độ quy định. .
* Thực hiện dự toán
Trong quá trình thực hiện dự toán, các cơ quan, đơn vị tuyệt đối chấp hành dự toán thu chi tài chính hành năm đã được duyệt theo chế độ chính sách của Nhà nước và toàn bộ các khoản thu chi trên thực tế phải được căn cứ trên các văn bản quy định pháp luật có liên quan và dựa trên cơ sở cân đối giữa thu và chi.
Các cơ quan, đơn vị phải mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước để thực hiện chi qua Kho bạc nhà nước đối với các khoản kinh phí thuộc NSNN và được mở tài khoản tại ngân hàng hoặc tại Kho bạc nhà nước để phản ánh các khoản thu thi của các hoạt động khác của đơn vị như hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ.
* Quyết toán
Đây là khâu cuối cùng trong quy trình quản lý tài chính của các cơ quan, đơn vị. Cuối quý, cuối năm các cơ quan, đơn vị phải tiến hành lập báo cáo kế toán, báo cáo quyết toán thu chi tài chính về tình hình sử dụng nguồn tài chính để gửi đến các cơ quan chức năng theo quy định. Báo cáo quyết toán ngân sách của các cơ quan, đơn vị phản ánh tổng hợp tính hình tài sản, thu chi và kết quả sử dụng nguồn lực tài chính tại cơ quan, đơn vị nhằm cung cấp thông tin tài chính của đơn vị giúp cho việc đánh giá tình hình và thực trạng của cơ quan, đơn vị.
1.2.2 Cấp dự toán và quản lý tài chính theo cấp dự toán
Các cơ quan HCNN trong cùng một ngành theo một hệ thống dọc được thống nhất tổ chức thành các đơn vị dự toán các cấp: Đơn vị dự toán cấp I, Đơn vị dự toán cấp II, Đơn vị dự toán cấp III.
Đơn vị dự toán cấp I: là đơn vị nhận trực tiếp ngân sách năm do cấp chính quyền tương ứng giao và chịu trách nhiệm phân bổ dự toán ngân sách năm xuống cho đơn vị cấp dưới, quản lý điều hành ngân sách năm của cấp mình và cấp dưới trực thuộc.
Đơn vị dự toán cấp II: là đơn vị trực thuộc đơn vị dự toán cấp I, có nhiệm vụ nhận dự toán ngân sách của đơn vị dự toán cấp I và phân bổ dự toán cho đơn vị dự toán cấp III, có trách nhiệm tổ chức điều hành quản lý kinh phí của cấp mình và đơn vị dự toán cấp dưới.
Đơn vị dự toán cấp III: là đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng kinh phí từ đơn vị cấp II hoặc đơn vị dự toán cấp I nếu không có cấp II, có trách nhiệm tổ chức thực hiện quản lý kinh phí của đơn vị mình và đơn vị dự toán cấp dưới.
1.2.3 Phân cấp trách nhiệm và kiểm soát tài chính trong đơn vị
Như đã nêu ở trên, nguồn kinh phí để các cơ quan nhà nước hoạt động, có thể là hoàn toàn từ NSNN hoặc một phần từ NSNN. Ngân sách nhà nước, quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, lâu nay luôn xảy ra mâu thuẫn giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi. Để giảm thiểu mâu thuẫn này, cũng đồng thời trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương, cho các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã tiến hành phân cấp ngân sách, tạo điều kiện cho địa phương phát huy tính chủ động sáng tạo của mình, góp phần thiết thực trong việc lành mạnh hóa NSNN. Còn đối với các cơ quan nhà nước, Nhà nước phân cấp trách nhiệm và quyền kiểm soát hoạt động tài chính trong cơ quan, đơn vị cho chính cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN. Nhà nước giao cho các cơ quan nhà nước quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động tài chính, mỗi cơ quan, đơn vị tự xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ. Trong đó, thể hiện rõ quyền tự chịu trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị đối với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước được cấp để cơ quan thực hiện nhiệm vụ của mình. Chính phủ cũng quy định rất rõ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp cụ thể ở các Nghị định 130 (đối với cơ quan hành chính) và Nghị định 43 (đối với đơn vị sự nghiệp). Đây được xem là hình thức phân cấp trách nhiệm và quyền kiểm soát hoạt động tài chính cho cơ quan nhà nước tiên tiến hiện nay của nhà nước, và người chịu trách nhiệm chính là thủ trưởng đơn vi.
1.2.4 Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước
Tổ chức bộ máy trực tiếp quản lý tài chính trong các cơ quan, đơn vị bao gồm: Lãnh đạo tổ chức công, Trưởng Phòng tài chính kế toán, Phòng tài chính kế toán, Trưởng các phòng bộ phận trong tổ chức.
Ban lãnh đạo
Trưởng phòng tài chính kế toán
Phòng tài chính kế toán | Các phòng, bộ phận thuộc tổ chức |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Kiểm toán nhà nước - 1
- Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Kiểm toán nhà nước - 2
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Thực Hiện Cơ Chế Tự Chủ Đối Với Các Cơ Quan Nhà Nước
- Kinh Nghiệm Quản Lý Tài Chính Của Một Số Đơn Vị Trong Nước Và Nước Ngoài, Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Cho Các Cơ Quan Nhà Nước Thực Hiện Chế Độ Tự
- Thực Trạng Công Tác Quản Lý Tài Chính Theo Cơ Chế Tự Chủ, Tự Chịu Trách Nhiệm Tại Ktnn
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Hình 1.1: Sơ đồ bộ máy trực tiếp quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính
1.2.5 Xác định nhiệm vụ chi tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước
Ở mỗi cơ quan, đơn vị, các khoản chi được chia thành hai loại: các khoản chi hoạt động thường xuyên và các khoản chi hoạt động không thường xuyên.
* Các khoản chi thường xuyên: chi thường xuyên trong các cơ quan, đơn vị là khoản chi để duy trì hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị bao gồm: chi lương, phụ cấp và các khoản đóng góp; chi vật tư văn phòng, thông tin tuyên truyền liên lạc; chi hội nghị, công tác phí; chi phí thuê mướn, chi đoàn ra, đoàn vào; chi sửa chữa tài sản cố định; chi nghiệp vụ chuyên môn,… Chi thường xuyên ít có biến động lớn qua các năm, các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định khá rõ nét. Tính ổn định của chi thường xuyên còn bắt nguồn từ tính ổn định trong từng hoạt động cụ thể mà mỗi bộ phận của cơ quan, đơn vị phải thực hiện.
* Các khoản chi không thường xuyên: gồm những khoản chi để thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, các khoản chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ viên chức, các khoản chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, các khoản chi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng theo giá hoặc khung giá do Nhà nước quy định, chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo quy định, chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao, chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định, chi đầu tư phát triển bao gồm:
chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài, chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết và các khoản chi khác theo quy định.
Các cơ quan, đơn vị phải đảm bảo yêu cầu cung cấp đầy đủ các khoản chi đáp ứng nhu cầu thưc hiện các chức năng và nhiệm vụ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị, quản lý có hiệu quả các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên trong các cơ quan đơn vị.
1.3 Cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước
1.3.1 Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước
Để có được khái niệm về cơ chế tự chủ tài chính, trước tiên ta tìm hiểu các khái niệm cơ chế là gì, tự chủ là gì ?
Theo từ điển tiếng Việt, “cơ chế” là cách thức mà theo đó một quá trình được thực hiện, hay có thể nói cơ chế là cách thức do con người xác định để thực hiện một quá trình nhất định theo định hướng và ý chí chủ quan của con người. “Tự chủ” là việc tự điều hành, quản lý mọi công việc của cá nhân hoặc của tổ chức không bị cá nhân hoặc tổ chức khác chi phối. Tự chủ là quyền quản lý, điều hành, kiểm soát. Trong phạm trù về tự chủ tài chính được hiểu là quyền tự mình kiểm soát, điều hành, tổ chức, quản lý sử dụng và khai thác các nguồn nguồn lực của cá nhân hoặc tổ chức mà không bị các cá nhân hoặc tổ chức khác chi phối.
Qua khái niệm trên có thể thấy cơ chế là quá trình các chủ thể sử dụng quyền tự mình quản lý, điều hành, khai thác, kiểm soát, sử dụng các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức theo cách thức, định hướng, ý chí chủ quan của con người để đạt được những mục tiêu, định hướng nhất định.
Cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan quản lý nhà nước có thể được thay đổi qua các thời kỳ và giữa các quốc gia. Hiện nay ở Việt Nam, Cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan quản lý nhà nước là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính thực hiện theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ sửa đổi Nghị định số 130/2005/NĐ-CP.
Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính là cơ chế nhà nước phân cấp cho đơn vị, cơ quan được chủ động và chịu trách nhiệm trước nhà nước trong việc tạo nguồn thu và chi tiêu trong đơn vị, cơ quan nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Tự chủ các mặt về hoạt động tài chính giúp các đơn vị tự chủ các nguồn thu, nhằm tăng cường khả năng khai thác các nguồn thu hợp pháp của đơn vị. Các đơn vị được giao nhiệm vụ và giao khoán kinh phí tương ứng với nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, các đơn vị cũng được chủ động sử dụng kinh phí theo nhu cầu nhiệm vụ của đơn vị trong phạm vi nguồn kinh phí được giao khoán. Nếu đơn vị sử dụng kinh phí tiết kiệm, phần tiết kiệm đó được quyết định sử dụng tăng thu nhập cho cán bộ công chức trong đơn vị.
Tự chủ về tổ chức bộ máy và sắp xếp lao động là sau khi tuyển dụng, đơn vị được tự chủ trong việc sắp xếp, phân công cán bộ công chức đảm bảo theo yêu cầu và hiệu quả trong công việc. Nếu đơn vị sử dụng ít hơn số biên chế được giao thì vẫn được NSNN cấp kinh phí đủ với số chỉ tiêu biên chế được giao.
1.3.2 Mục tiêu của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước
Một là, tạo điều kiện cho các cơ quan chủ động hơn trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính một cách hợp lý nhất để hoàn thành các chức năng và nhiệm vụ được giao
Hai là, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức bộ máy tinh gọn, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng lao động, kinh phí quản lý hành chính.
Ba là, nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí quản lý hành chính, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
Bốn là, thực hiện quyền tự chủ đồng thời gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị và cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật.
1.3.3 Nguyên tắc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước
Bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; không tăng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao, trừ trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 9 của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005; thực hiện công khai, dân chủ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cán bộ, công chức.
1.3.4 Nội dung cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước
* Về biên chế
Được quyết định việc sắp xếp, phân công cán bộ, công chức theo vị trí công việc để bảo đảm hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan. Được điều động cán bộ, công chức trong nội bộ cơ quan.
Trường hợp sử dụng biên chế thấp hơn so với chỉ tiêu được giao, cơ quan vẫn được bảo đảm kinh phí quản lý hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao.
Được hợp đồng thuê khoán công việc và hợp đồng lao động đối với một số chức danh theo quy định của pháp luật trong phạm vi nguồn kinh phí quản lý hành chính được giao.
* Về kinh phí quản lý hành chính
Kinh phí quản lý hành chính giao cho các quan thực hiện chế độ tự chủ từ các nguồn sau:
+ Ngân sách nhà nước cấp;
+ Các khoản phí, lệ phí được để lại theo chế độ quy định;
+ Các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Với các khoản thu từ phí, lệ phí được để lại và các khoản thu khác: việc xác định mức phí, lệ phí được trích lại đảm bảo hoạt động phục vụ căn cứ vào các văn bản do cơ quan