Nâng Cao Hiệu Quả Tài Chính Đối Với Hoạt Động Cho Vay Lại Vốn Oda


vốn ODA sẽ ảnh hưởng cả đến sự phát triển của ngân hàng và chiến lược phát triển KTXH của quốc gia. Nợ quá hạn làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng do phải trích lập dự phòng rủi ro (đối với hình thức TCTD chịu RRTD) và tăng chi phí thu hồi nợ. Mặt khác, nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình tài chính của ngân hàng, giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Theo phân tích thực trạng ở chương 2 của luận án, nợ xấu và nợ quá hạn trong hoạt động cho vay lại vốn ODA của VDB hiện nay không cao. Giai đoạn 2012 - 2017, tỷ lệ nợ xấu chỉ chiếm khoảng 2,91% cho thấy hầu hết các dự án đang phát huy hiệu quả, trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, tại VDB hiện cũng đang quản lý những dự án có những khoản nợ xấu rất khó xử lý và đã trở thành nợ có nguy cơ mất vốn (các dự án lớn như đóng tàu, chế biến nông nghiệp, xi măng…). Do đó để giảm thiểu tổn thất về tài sản, đồng thời lành mạnh hóa tình hình tài chính, VDB cần triển khai thực hiện các biện pháp xử lý nợ quá hạn để thu hồi nợ gốc và lãi vay.

- Đối với các dự án ODA có phát sinh nợ xấu, VDB cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ để gia hạn nợ, tái cơ cấu tài chính và hoạt động của chủ đầu tư. VDB có thể sử dụng biện pháp trực tiếp quản lý và khai thác tài sản BĐTV để thu hồi nợ theo quy định của Chính phủ. Tái cơ cấu chủ đầu tư giúp xử lý tận gốc vấn đề nợ xấu cho nền kinh tế, giúp gia tăng giá trị chủ đầu tư qua đó các khoản nợ được thu hồi với giá trị tốt hơn. Xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu chủ đầu tư góp phần bảo đảm an sinh xã hội và làm tăng thu NSNN thông qua việc duy trì và tạo công ăn việc làm cho người lao động.

- Thực hiện biện pháp thu hồi nợ thứ hai, xử lý nợ xấu thông qua tài sản BĐTV. Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu sẽ giúp xử lý tài sản BĐTV được nhanh, thuận lợi hơn. VDB cần phát huy và đẩy mạnh quyền thu giữ tài sản ĐBTV khi chủ đầu tư vi phạm cam kết dẫn đến không trả được nợ hoặc cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Sau khi thu giữ tài sản BĐTV, ngân hàng được bán theo giá thị trường, có thể thấp hơn giá trị sổ sách. Giá trị thu được từ bán tài sản BĐTV được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ, khi có tranh chấp khởi kiện ra tòa thì được giải


quyết theo thủ tục rút gọn để rút ngắn quy trình, thủ tục tố tụng tại tòa án, giúp ngân hàng xử lý nhanh tài sản BĐTV.

- Đối với dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại theo hình thức VDB chịu RRTD có phát sinh nợ xấu. VDB thực hiện bán nợ cho Công ty mua bán nợ Việt Nam (DATC) để tiếp tục theo dõi và xử lý theo thẩm quyền đối với những khoản nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước. Hoặc bán lại cho các doanh nghiệp, tổ chức có đủ năng lực tài chính đối với những khoản nợ của chủ đầu tư khác thông qua đấu giá công khai.

- Phát hành giấy tờ có giá để chuyển một phần hoặc toàn bộ quyền sở hữu đối với các khoản nợ do cho các chủ thể khác nhằm huy động thêm các nguồn lực tài chính để phục hồi, duy trì hoạt động của các dự án ODA và tạo cơ sở cho việc thu hồi nợ của VDB.

Thứ ba, Hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm về nợ quá hạn

Dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại tại VDB có đặc trưng chủ yếu là thời gian thực hiện đầu tư và hoàn vốn dài nên kéo theo đó là sự thay đổi các yếu tố tác động đến kết quả của các hạng mục trong dự án hoặc kết quả của cả dự án là không thể tránh khỏi. Việc theo dõi thường xuyên thông qua kiểm tra trực tiếp dự án, yêu cầu chủ đầu tư cung cấp báo cáo về dòng tiền liên quan đến sử dụng vốn vay và đánh giá lại tài sản BĐTV sẽ giúp ngân hàng có được những cảnh báo sớm đối với khoản vay. Theo đó, ngân hàng sẽ nhận biết được các dấu hiệu trước khi khoản vay trở thành nợ quá hạn, nợ xấu. Tầm quan trọng của hệ thống cảnh báo sớm là:

+ Hệ thống cảnh báo sớm sẽ hiển thị các khoản vay sắp có vấn đề cho chi nhánh và hội sở chính;

+ Các chi nhánh với sự phối hợp hoạt động cùng Hội sở chính có thể xử lý sớm đối với các khoản vay này (ví dụ dừng giải ngân khoản vay, cơ cấu lại khoản vay, tư vấn để điều chỉnh nội dung của khoản vay và các hạng mục của dự án…);

+ Ngân hàng sẽ có được thông tin sớm được tổng hợp về các lĩnh vực, vùng địa lý bị ảnh hưởng tiêu cực. Theo đó, ngân hàng yêu cầu thêm điều khoản phụ hoặc yêu cầu thêm về tài sản BĐTV cho các khoản vay mới thuộc các lĩnh vực hoặc


vùng đó; hoặc ngân hàng có thể giảm các khoản vay mới cho đến khi có sự cải thiện chung. Do vậy, rủi ro cho vay lại phát sinh ở đâu và ở bất kỳ thời điểm nào thì hệ thống giám sát phải phát hiện được, cập nhật ngay vào sổ sách kế toán.

Hiện nay, VDB đã xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để đưa ra các cảnh báo về mức độ rủi ro của từng chủ đầu tư. Trong tương lai, hệ thống này cần được hoàn thiện trên cơ sở phát triển hệ thống tự động sàng lọc và phân loại thông tin đầu vào, mở rộng khả năng và tốc độ xử lý dữ liệu. Sàng lọc thông tin theo 2 cấp độ. Thứ nhất, dựa trên thông tin từ kho dữ liệu chủ đầu tư, hệ thống Xếp hạng tín dụng nội bộ và hệ thống Quản lý rủi ro. Thứ hai, dựa trên kết quả điều tra thông tin về hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư và các nguồn thông tin đáng tin cậy từ bên ngoài để đưa ra mức độ cảnh báo của khoản ODA cho vay lại.

3.2.3. Tăng cường quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA

Năng lực QLRR được coi là nội dung quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động cho vay lại ODA, theo khuyến cáo của Ủy ban Basel và tuân thủ các thông lệ quốc tế, bộ phận hoạt động nghiệp vụ phải được tách bạch với bộ phận quản lý rủi ro trong ngân hàng.

Rủi ro cho vay lại vốn ODA có thể xảy ra trước, trong và sau khi thực hiện hoạt động cho vay, có thể xuất phát từ quy trình quản lý cho vay lại. Thực hiện giải pháp này cũng cần lưu ý đến đặc thù trong tổ chức hoạt động cho vay lại vốn ODA tại VDB. Hiện nay, cho vay lại vốn ODA chủ yếu tại VDB được thực hiện theo hình thức VDB không chịu RRTD, chủ thể chịu rủi ro là Nhà nước, Chính phủ. Xuất phát từ vai trò quan trọng của ODA đối với phát triển KTXH quốc gia, VDB là công cụ của Chính phủ, định chế tài chính trực tiếp quản lý vốn ĐTPT của Nhà nước. Đối với cả hai hình thức cho vay lại vốn ODA, nợ quá hạn và nợ xấu có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Vì vậy, tăng cường quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA là cần thiết. Tăng cường năng lực QLRR cho vay lại vốn ODA tại VDB cần tập trung vào giải quyết trên cả tổ chức bộ máy, lựa chọn áp dụng mô hình QLRR, nội dung nghiệp vụ và tổ chức hệ thống thông tin QLRR cho vay lại vốn ODA, cụ thể:


Thứ nhất, Tổ chức bộ máy quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA

Như đã phân tích ở chương 2, hiện nay VDB chưa tổ chức bộ máy quản lý rủi ro chuyên biệt. Do vậy, việc QLRR cho vay lại vốn ODA chưa được thực hiện một cách chuyên nghiệp và hiệu quả.

HỘI ĐỒNG XỬ LÝ RỦI RO

VBD cần phải xây dựng cho mình bộ máy QLRR phù hợp với thông lệ để tham mưu cho các cấp lãnh đạo thực hiện các quy định về QLRR trong hoạt động cho vay lại vốn ODA. Bộ phận QLRR đảm nhiệm chức năng nghiên cứu, đề xuất các giải pháp QLRR phù hợp với điều kiện thực tế của VDB trong từng giai đoạn gắn liền với nhiệm vụ theo dõi, phân tích, giám sát và thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro cho vay lại vốn ODA. Tổ chức bộ máy QLRR cho vay lại vốn ODA của VDB theo sơ đồ sau:

Hội đồng quản trị Ban Lãnh đạo



HỘI ĐỒNG TÍN DỤNG





Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 22


Ban Thẩm định

BAN QUẢN LÝ RỦI RO

Ban Quản lý vốn nước ngoài



CHI NHÁNH, SỞ GIAO DỊCH

Sơ đồ 3.1: Bộ máy QLRR cho vay lại vốn ODA tại VDB


Bộ phận QLRR phải được đảm bảo về tính độc lập, hoạt động theo nguyên tắc không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro. VDB cần quy định một cách rõ ràng chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận như Ban Thẩm định, Ban Quản lý vốn nước ngoài, Trung tâm Khách hàng, Trung tâm Xử lý nợ. Chức năng liên quan đến giám sát rủi ro phải được chuyển cho bộ phận QLRR đảm nhiệm.

Hội đồng Tín dụng có chức năng tư vấn, tham mưu cho Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc trong việc ra quyết định cho vay lại vốn ODA các dự án trên cơ sở xem xét, đánh giá kết quả thẩm định các dự án ODA, hiệu quả tài chính và mức độ rủi ro đối với cho vay lại do VDB chịu RRTD.


Hội đồng QLRR với nhiệm vụ tư vấn cho Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc trong việc lựa chọn quyết định biện pháp xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ xấu trong cho vay lại vốn ODA. Hội đồng QLRR bao gồm các thành viên là Lãnh đạo VDB và các phòng ban chức năng như ban QLRR, ban Tín dụng, ban Quản lý vốn nước ngoài, trung tâm Xử lý nợ, hoạt động theo thẩm quyền của Tổng Giám đốc.

Thứ hai, Xác định mô hình quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA

Xác định mô hình QLRR là một trong những nội dung quan trọng nhằm đảm bảo sự thành công của ngân hàng trong quản lý RRTD. Đó là việc lựa chọn cách thức tổ chức quản lý, nhận biết, đo lường và kiểm soát rủi ro cho vay lại vốn ODA nhằm hạn chế tối đa những tổn thất và đảm bảo an toàn hoạt động cho vay lại vốn ODA. Đối với hoạt động tín dụng cũng như cho vay lại vốn ODA, việc QLRR hiện nay của VDB chưa thực sự đi theo một mô hình nhất định. Các điều kiện áp dụng mô hình QLRR còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện.

Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn hoạt động tín dụng của VDB, theo khuyến cáo của BCBS và tuân thủ thông lệ quốc tế. Kết hợp với tổ chức bộ máy QLRR theo đề xuất đã phân tích ở trên. Tác giả cho rằng VDB cần áp dụng theo mô hình QLRR tập trung kết hợp với đo lường định lượng và kiểm soát kép. Việc áp dụng mô hình QLRR này giúp VDB đáp ứng được yêu cầu về QLRR theo thông lệ quốc tế và đảm bảo sự an toàn của hoạt động cho vay lại vốn ODA, hoạt động tín dụng, cũng như giúp VDB nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA.


Mô hình QLRR cho vay lại vốn ODA

Quản lý rủi ro theo mô hình tập trung

Đo lường rủi ro theo định lượng

Kiểm soát rủi ro theo cơ chế kép

Sơ đồ 3.2: Mô hình quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA


- Mô hình QLRR tập trung đòi hỏi VDB phải tách bạch chức năng ra quyết định tín dụng với chức năng quản lý cho vay lại trên cơ sở phân định trách nhiệm và


chức năng rõ ràng giữa ban Thẩm định, bộ phận Phê duyệt cho vay lại vốn ODA, ban Quản lý vốn nước ngoài và ban Quản lý rủi ro. Trung tâm Khách hàng chịu trách nhiệm phát triển và chăm sóc khách hàng. Tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng. Bộ phận phân tích tín dụng kiểm tra thông tin, thu thập các thông tin bổ sung qua các kênh thông tin. Trên cơ sở đó, thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về khách hàng, tình hình tài chính, phương án, dự án vay vốn đến các nội dung về đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả, phân tích đánh giá khách hàng lên ban Giám đốc. Kết quả phê duyệt tín dụng sau đó sẽ được chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lưu trữ thông tin đồng thời được chuyển cho trung tâm Khách hàng để thực hiện các khâu tiếp theo trong quy trình tín dụng.

- Đo lường RRTD được thực hiện theo mô hình định lượng bằng các phương pháp lượng hóa như chấm điểm tín dụng, xếp hạng tín dụng nội bộ, đo lường giá trị chịu rủi ro, đo lường mức độ sinh lời có tính đến rủi ro…

- Kiểm soát RRTD được thực hiện theo cơ chế kiểm soát kép. Bên cạnh hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ và cơ quan giám sát hoạt động của VDB, việc kiểm soát RRTD còn có sự tham gia của các tổ chức kiểm toán bên ngoài cũng như sự kiểm soát của thị trường.

Thứ ba, Phân loại nợ trên cơ sở định hạng rủi ro của khoản vay

Phân loại nợ là việc ngân hàng căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn, định mức để đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay, trên cơ sở đó phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ thích hợp. Như đã trình bày ở chương 2, mục 2.1.4.3, VDB hiện nay phân loại nợ các khoản vay ODA vào các nhóm nợ định kỳ hàng quý căn cứ theo thời gian quá hạn, số lần cơ cấu nợ. Phương thức phân loại nợ hiện nay tại VDB chưa căn cứ vào Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và tình hình thực tế về khả năng trả nợ của chủ đầu tư tại thời điểm phân loại nợ.

Theo quan điểm của tác giả, để quản lý tốt các khoản nợ, VDB cần thực hiện phân loại nợ khoản vốn ODA cho vay lại định kỳ hàng quý. Thực hiện theo quy


định hiện hành của NHNN tại thông tư số 09/2014/TT-NHNN, ngày 18/03/2014. Đối với các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3, 4, 5 cần phân loại định kỳ hàng tháng. VDB cần xây dựng cơ chế kiểm tra thường xuyên đối với các dự án ODA có phát sinh nợ xấu.

Thứ tư, Trích lập quỹ dự phòng phù hợp với mức độ rủi ro

Như đã phân tích ở chương 2, VDB hiện nay thực hiện việc trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của nghị định số 32/2017/NĐ- CP của Chính phủ. Bao gồm mức trích lập dự phòng chung là 0,75%/tổng dư nợ tính vào chi phí hoạt động và dự phòng rủi ro cụ thể.

Đối với hình thức VDB không chịu RRTD, dự phòng rủi ro được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 97/2018/NĐ-CP, chủ đầu tư chịu tính vào chi phí lãi vay, VDB thu hộ và nộp Quỹ Tích lũy trả nợ nước ngoài. Đối với cho vay lại vốn ODA, theo hình thức VDB chịu RRTD. VDB cần trích lập dự phòng RRTD dựa trên việc phân loại nợ, để phản ánh đúng mức độ rủi ro của khoản vay, hạn chế những tổn thất do rủi ro gây ra. Luận án cho rằng, để đảm bảo khả năng chống đỡ của VDB trước những tổn thất về tài sản do RRTD cho vay lại vốn ODA gây ra, VDB cần phải thực hiện việc trích lập dự phòng phù hợp với mức độ rủi ro của khoản vay. VDB cần xác định mức trích lập dự phòng dựa trên kết quả phân loại khoản vay theo tỷ lệ do NHNN quy định tại thông tư số 09/2014/TT-NHNN. Việc trích lập dự phòng theo mức độ rủi ro là cơ sở để VDB có thể bảo toàn được vốn. VDB kiến nghị với Chính phủ quyền chủ động trong việc trích lập dự phòng rủi ro cho vay lại vốn ODA.

Thứ năm, Xây dựng hệ thống dữ liệu phục vụ quản lý rủi ro

Hệ thống thông tin hỗ trợ quản lý rủi ro tín dụng phải được xây dựng để đảm bảo cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt động tín dụng một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác và thường xuyên cập nhật nhằm giúp cho công tác quản lý được tiến hành có hiệu quả và hạn chế các tổn thất do tình trạng thiếu thông tin. Hệ thống thông tin này bao gồm hai loại:

- Thông tin có tính vĩ mô, định hướng, bao gồm: (i) môi trường kinh tế vĩ


mô, các định hướng và chính sách của nhà nước có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay lại ODA của VDB; (ii) hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động cho vay lại vốn ODA.

- Thông tin phục vụ trực tiếp cho hoạt động quản lý rủi ro tín dụng, bao gồm:

(i) hệ thống thông tin từ chủ đầu tư sử dụng vốn ODA cho vay lại của VDB; (ii) hệ thống thông tin phục vụ quản lý cho vay lại vốn ODA (báo cáo thực trạng hoạt động cho vay lại, dự báo xu hướng phát triển, phân tích và báo cáo về xu hướng của rủi ro cho vay lại…).

Để đảm bảo kết quả tài chính của hoạt động cho vay lại vốn ODA nói riêng, cũng như thực hiện mục tiêu của VDB trong quá trình tái cơ cấu. Tác giả cho rằng cần: (1) nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý rủi ro cho vay lại vốn ODA gắn liền với việc hoàn thiện mô hình bộ máy QLRR cho toàn bộ hoạt động của VDB; (2) xây dựng hệ thống thông tin về QLRR kết nối trong dữ liệu của ngân hàng.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả tài chính đối với hoạt động cho vay lại vốn ODA

Kết quả tài chính từ hoạt động cho vay lại vốn ODA là cơ sở để đảm bảo hiệu quả của ngân hàng. Lợi nhuận của cho vay lại vốn ODA được sử dụng để trang trải các chi phí, nâng cao chất lượng các mảng hoạt động, đảm bảo tăng trưởng quy mô tài sản của ngân hàng.

Như đã phân tích thực trạng hiệu quả tài chính ở chương 2 luận án, giai đoạn 2012 - 2017, kết quả từ hoạt động cho vay lại vốn ODA của VDB hàng năm tạo ra khoảng gần 215 tỷ đồng. Mặc dù mang lại lợi nhuận nhưng kết quả tài chính từ hoạt động này có xu hướng giảm. Chương 2 của luận án cũng đã phân tích rõ, quy mô cho vay lại vốn ODA của VDB tăng trưởng hàng năm. Trong đó, quy mô cho vay lại vốn ODA theo hình thức VDB không chịu RRTD tăng trưởng, còn hình thức VDB chịu RRTD lại giảm mạnh cả về số vốn và số lượng dự án. Năm 2012 VDB quản lý 43 dự án ODA theo hình thức VDB chịu RRTD với dư nợ khoảng 4.943 tỷ đồng, thì đến năm 2017 chỉ còn lại 6 dự án ODA với dư nợ 1.369 tỷ đồng. Để nâng cao hiệu quả tài chính của hoạt động cho vay lại vốn ODA, luận án cho rằng VDB cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/11/2022