Hành trình sáng tác của Nguyên Ngọc từ Đất nước đứng lên đến Đất Quảng - 9


khẳng định được tên tuổi của mình với truyện ngắn Rừng xà nu. Đây có thể xem là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng.

Để làm nên bản giao hưởng anh hùng ca ấy, trước tiên phải kể đến thành công của Nguyễn Trung Thành trong việc khắc họa hình tượng cây xà nu. Xà nu là loài cây họ thông, trồng nhiều ở núi rừng Tây Nguyên, đặc trưng cho vùng đất Tây Nguyên. Trong chuyến hành quân tháng 5 năm 1962 từ miền Bắc vào, Nguyễn Trung Thành đã bắt gặp rừng xà nu và có ấn tượng với nó: "Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông tưởng như đã sống từ ngàn đời còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn hàng triệu cây, vô tận"[8]. Với những ấn tượng trên nên Nguyễn Trung Thành đã dành cho cả trang mở đầu để đặc tả cánh rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của đồn giặc, đang "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng", với "những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Đến khi kết thúc truyện ngắn, lại là hình ảnh "rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời" đến hút tầm mắt của cụ Mết, Dít và Tnú khi ba người đứng ở cửa rừng gần con nước lớn nhìn ra xa. Đó là lối kết cấu đầu cuối tương ứng, kết cấu vòng tròn, tạo dư âm hùng tráng, bâng khuâng đặc biệt. Lối kết cấu này như dựng cái khung, cái nền vững chãi để trên đó nhà văn khai triển câu chuyện - cả một câu chuyện dài đầy đau thương và anh dũng, những trang sử thi bi hùng của làng Xô Man lần lượt hiện lên trên nền cảnh xà nu. Trong suốt chiều dài tác phẩm, hình ảnh cây xà nu còn được trở đi trở lại nhiều lần. Có thể nói xà nu trở thành một nhân vật tham dự vào đời sống sinh hoạt, chứng kiến mọi tâm tình, mọi bước trưởng thành của dân làng Xô Man bất khuất: cây xà nu lớn bên đường nhắc Tnú nhớ lại ngày gặp Mai lần đầu sau khi ở tù về với những giọt nước mắt vừa xấu hổ vừa thương yêu; ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp; khói xà nu


xông đen tấm bảng cho anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ; đuốc xà nu đêm đêm soi sáng cho dân làng mài vũ khí, cháy sáng trên tay cụ Mết và dân làng Xô Man trong đêm vào rừng lấy giáo mác chuẩn bị cho đồng khởi,... Giữa cây xà nu với dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung có mối quan hệ gắn bó thân thiết. Dường như cây xà nu cũng biết đau thương, căm giận, tự hào cùng với con người. Phải chăng vì thế, nên khi miêu tả con người, Nguyễn Trung Thành hay ví với cây xà nu, ngược lại khi miêu tả cây xà nu, nhà văn hay dùng những hình ảnh, từ ngữ về con người. Chẳng hạn như miêu tả cụ Mết "ngực căng như một cây xà nu lớn", hay vết thương trên lưng Tnú do giặc tra tấn "ứa một giọt máu đậm, từ sáng tới chiều đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa cây xà nu". Còn những vết thương trên cây xà nu chóng lành được ví như sự phục hồi "trên một thân thể cường tráng"... Bằng những thủ pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, phóng đại, nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp phẩm chất, sức sống của xà nu. Và vì thế, cây xà nu không chỉ có ý nghĩa tả thực mà nó còn có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh xà nu biểu tượng cho đau thương, mất mát lớn lao của con người Tây Nguyên trong những năm tháng Mỹ - Ngụy khủng bố ác liệt. Tổn thất, đau thương là không thể tránh khỏi: "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương". Và nỗi đau hiện ra trong nhiều vẻ. Có cái xót xa của các cây non, tựa như đứa trẻ thơ, "nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết". Lại có cái đau dữ dội của những cây xà nu, như con người đang giữa tuổi thanh xuân, bỗng "bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão". Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá, huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt. "Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". "Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã


ngã". "Những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê". Giống như các thế hệ người dân Tây Nguyên kế tiếp nhau nhanh chóng trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Thế hệ này ngã xuống có ngay thế hệ sau tiếp nối, đảm đương sứ mệnh đánh giặc, bảo vệ quê hương. Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống" cũng như con người Tây Nguyên cũng yêu tự do, cần lí tưởng cách mạng soi rọi như muôn cây hướng về ánh sáng mặt trời, v.v... Chính những ý nghĩa biểu tượng này đã làm tăng thêm chất thơ, chất lãng mạn bay bổng cho hình ảnh xà nu.

Bên cạnh hình ảnh cây xà nu, tác giả còn rất thành công khi xây dựng chân dung một tập thể anh hùng. Họ gồm những cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, chị Dít, bé Heng,... mỗi người mỗi vẻ, nhưng đều giống nhau ở tình yêu với buôn làng, với đất nước, quyết tâm đứng lên đánh giặc, kiên cường, dũng cảm, một lòng trung thành với cách mạng. Cụ Mết là một già làng sừng sững uy nghi như một cây đại thụ. Cụ đại diện cho truyền thống của làng Xô Man anh hùng. Nói như Nguyễn Trung Thành: “ Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên thời “đất nước đứng lên” còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của các thế hệ sau” [8]. Đọc Rừng xà nu, chúng ta không thể quên được hình ảnh "ông cụ sáu mươi tuổi", "vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn", " tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực". " Lúc ông cụ Mết nói, mọi người đều im bặt". Chính cụ đã rút ra bài học kinh nghiệm cho làng đánh giặc bằng vũ khí: "Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!...". Và cũng chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi chống giặc:


"Tiếng cụ Mết ồ ồ: "Chém!, Chém hết!" (...). Cụ Mết chống giáo xuống sàn nhà, tiếng nói vang vang: - Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên!"...Thật rực rỡ như một trang sử thi anh hùng!. Tnú, Mai, Dít là những nhân vật đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên, thế hệ chủ lực đánh đế quốc Mỹ ở Tây Nguyên. Trong những thanh niên ưu tú đó thì Tnú là tiêu biểu. Tnú là nhân vật anh hùng, được khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu chất sử thi. Lúc nhỏ, Tnú đã là một đứa bé gan góc, táo bạo, quả cảm. Mặc dù địch khủng bố dã man (chặt đầu người đi nuôi cán bộ cách mạng) nhưng Tnú và Mai vẫn là hai người đi đầu trong việc này. "Trong đám đó, hăng nhất có Tnú và Mai (...) để cán bộ ngủ một mình ngoài rừng một đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy". Khi học chữ thua Mai, Tnú trừng phạt mình bằng cách "lấy đá đập vào đầu, chảy máu ròng ròng". "Tnú hay quên chữ nhưng đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng (...) Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình". Khi bị địch bắt, tra tấn dã man, hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đặt tay lên bụng nói "Ở đây này!", rồi lại bị tra tấn nhưng Tnú vẫn không chịu nói. Quả là tư cách, phẩm chất của một anh hùng!. Trưởng thành, Tnú càng tỏ rõ phẩm chất anh hùng, dũng cảm. Anh yêu quê hương tha thiết và căm thù giặc mãnh liệt. Bọn Mỹ - Diệm gọi Tnú là con cọp rừng: "Con cọp đó mà không giết sớm, nay nó làm loạn núi rừng này rồi". Chúng tìm mọi cách bủa vây để bắt cho được Tnú. Câu chuyện được dồn vào một thời điểm đặc biệt, vào cái đêm khủng khiếp và gây ấn tượng trong suốt cuộc đời của mỗi người dân làng Xô Man. Không bắt được Tnú, bọn thằng Dục bắt hai mẹ con Mai - vợ con của Tnú và tra tấn bằng cây gậy sắt cho đến chết. Tnú nấp ở gần đấy, căm giận, lao vào lũ giặc với tiếng thét dữ dội và đôi mắt như "hai cục lửa lớn". Đến khi bị thằng Dục trói, rồi dùng giẻ quấn lên mười đầu ngón

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


tay Tnú và lấy nhựa xà nu tẩm đốt, "Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó gí cây lửa lại sát mặt anh:

Hành trình sáng tác của Nguyên Ngọc từ Đất nước đứng lên đến Đất Quảng - 9

- Coi kĩ cái mặt thằng cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào! Số kiếp chúng mày không phải số kiếp cầm giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không!

Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón (...). Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng ". Có thể nói hình ảnh bàn tay là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh. Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời. Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói cộng sản "ở đây này", từng được Mai cầm bàn tay ấy lên mà khóc khi anh thoát ngục trở về... Khi kẻ thù đốt mười ngón tay anh, bàn tay thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù. Lúc đó "Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng (...) Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn...". Thế là giông bão nổi lên. Từ hận thù đã biến thành hành động. Sau tiếng thét dữ dội của Tnú, dân làng bột phát vùng lên giết sạch mười tên giặc. "Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đó". Rồi vết thương lành lại. Mỗi ngón tay cụt một đốt. Còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, bắn súng. Và Tnú đã lên đường trả hận cho những người thân yêu đã ngã xuống, trả hận cho quê hương. Với chính đôi bàn tay bị cụt mười ngón ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng những thằng Dục - theo anh, bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục!.

Bên cạnh Tnú luôn có Mai - người đồng chí thân tình, người bạn đời thuỷ chung. Khi Mai ngã xuống lại có Dít đứng lên đi tiếp con đường đấu tranh của chị và dân làng Xô Man. Dít cũng giống như Mai, từ nhỏ cô đã rất


gan dạ, kiên cường. Bị kẻ thù bắt, bắn doạ để khủng bố tinh thần, Dít vẫn thản nhiên lạ lùng, với đôi mắt mở to bình thản. Càng trưởng thành, Dít càng chứng tỏ bản lĩnh, phẩm chất của một người anh hùng. Cô tích cực tham gia cách mạng, chiếm được cảm tình của dân làng Xô Man, trở thành nòng cốt của cuộc kháng chiến hôm nay, nối tiếp xứng đáng truyền thống anh hùng của dân tộc. Bé Heng là thế hệ tương lai của cách mạng. Mặc dù không được miêu tả nhiều trong tác phẩm, nhưng nhân vật này lại có ý nghĩa quan trọng, làm đẹp hơn, hoàn chỉnh hơn bức tranh về vẻ đẹp truyền thống anh hùng của các thế hệ người dân Tây Nguyên.

Một thành công nữa của Nguyễn Trung Thành trong thiên truyện này không thể không kể đến đó là việc sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu. Miêu tả cánh rừng xà nu đại ngàn, nhà văn dùng ngôn ngữ giàu tính tạo hình: "Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt...". Hơn nữa nhà văn còn sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại - một biện pháp truyền thống của sử thi để miêu tả rừng xà nu: "Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...". Bên cạnh đó, giọng điệu sử thi được biểu hiện rất phong phú trong Rừng xà nu. Suốt chiều dài tác phẩm, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng thành công giọng điệu ngợi ca, thành kính thể hiện thái độ ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của con người Việt Nam thời chống Mỹ. Không chỉ vậy, khi miêu tả thế hệ người Việt Nam vùng lên đấu tranh, Rừng xà nu mang giọng điệu hào hùng. Cho nên giọng trần thuật mang màu sắc sử thi đã tái hiện thành công không khí của những ngày đồng khởi trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ.

Tóm lại, viết Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành "đã quan tâm đến vẻ đẹp và sự hùng tráng của dân làng Xô Man, cũng như của núi rừng Tây Nguyên. Chất hiện thực của những cuộc đời và con người có thật có một sức hấp dẫn đặc biệt tạo nên cái nền khỏe khoắn của câu chuyện. Nhưng bay bổng


hơn, cảm hứng lãng mạn và sử thi đã nâng hình tượng nhân vật và thiên nhiên lên một tầm vóc mới. Câu chuyện luôn tạo được không khí trang nghiêm qua từng tiết tấu truyện."[47]. Rừng xà nu thật xứng đáng với Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ Giải Phóng năm 1965.

2.3.2. Tiểu thuyết “Đất Quảng”

Cuộc chiến đấu chống Mỹ khốc liệt sớm trở thành mảnh đất màu mỡ cho nhiều tác phẩm ra đời, phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu của nhân dân, và là vũ khí của nhân dân chiến đấu. Ngay sau Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu đã thấy hình thành rõ dần những mũi nhọn, những vùng đất, những kiểu người gắn với cả một quá trình theo dõi bền bỉ của nhiều cây bút văn xuôi.

Như nhiều cây bút cùng thời, Nguyễn Trung Thành cũng đã chọn cho mình những vùng đất, những con người mà mình am hiểu và yêu mến để làm chất liệu sáng tác. Sau thành công lớn với Đất nước đứng lên, rồi với Rừng xà nu - những tác phẩm viết về đất và người Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành tiếp tục khẳng định được vị trí của mình với nhiều tác phẩm khác viết về "đất Quảng" - một vùng đất thấm mồ hôi và máu biết bao thế hệ con người. Ở những tác phẩm này, Nguyễn Trung Thành luôn quan tâm đến dòng chuyển cuồn cuộn của lịch sử và sự sống luôn dày nặng những đau thương và chiến công. Tiêu biểu nhất trong những sáng tác Nguyễn Trung Thành viết về vùng đất này phải kể đến tiểu thuyết Đất Quảng (1970). Mặc dù cuốn sách này mới chỉ viết xong một tập nhưng nó đã để lại ấn tượng đậm nét về một vùng đất quật khởi trong những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trong tiểu thuyết này, Nguyễn Trung Thành chọn để miêu tả xã Hòa Thanh - một trong những xã điển hình của vùng "đất Quảng" bị kẻ thù tàn phá, huỷ diệt nhưng "vẫn đứng trụ đó", "im lặng và ương ngạnh", cùng tập thể nhân dân nơi đây vẫn kiên cường bám đất bám làng. Đó là "ông già sông Trúc" cao lớn "như một cây danh mộc trong rừng sâu mà


nhanh nhẹn như một con báo (...). Ông không ở du kích cũng chẳng giữ chưn chi trong uỷ ban, đoàn thể, nhưng lúc nào cũng lè kè bên vai một cái túi-rết xi-ta y như một người cán bộ". Sau lần bị thằng Thái, cán bộ huyện nhưng lại theo Tây đánh vì "sự ngang tàng của ông cứ như một ngọn đèn sáng dữ dội soi rõ tâm địa phản trắc hèn mạt của hắn", "ông già sông Trúc đã bắt đầu đi tìm tổ chức". Ông là một trong những thành viên tích cực trong tổ chức, mặc dù chưa được kết nạp Đảng. Đêm đêm ông vẫn hồi hộp lắng nghe, "theo dõi từng tiếng động khác thường của mặt đất làng quê ông mà dự đoán tình hình, phía địch phía ta". Đó là Sáu Thắm, con gái ông già sông Trúc sáng ngời phẩm chất anh hùng. Phẩm chất ấy vừa như có sẵn trong máu, vừa như chất thép càng được tôi luyện càng rắn chắc hơn. Ngay từ lúc còn trẻ, Thắm đã là một du kích lanh lẹ, hoạt bát, dũng cảm. Cũng giống như "những mụn măng non nhọn hoắc", "Bom đạn, tàn phá, sự giết chóc man rợ của kẻ thù, tình thương cộc cằn của cha, lao động căng thẳng, chẳng gì có thể dập tắt nổi niềm vui nhỏ nhắn và mạnh mẽ cứ trỗi dậy trong lòng cô hồ hởi say sưa". Rồi khi trở thành vợ, thành mẹ, Thắm phải đối đầu với những thử thách khủng khiếp: chị sinh đứa con đầu lòng trong lao quận, trên nền xi măng lạnh ngắt khiến đứa bé suốt một ngày đầu không cất được tiếng khóc; anh Quế - chồng chị bị tra tấn dã man, rồi sau đó bị cha con thằng Hứa Xâng giết bên sông... Nhưng chị đã cắn răng chịu đựng, vượt qua nỗi đau để đi tiếp con đường của chồng, làm trọn sự nghiệp của chồng để lại. Và trong "những ngày đồng khởi tưng bừng" - "những ngày giành đi giật lại với kẻ thù từng mảnh đất giải phóng", Thắm càng "xông xáo và hồ hởi" bởi chị hiểu rằng "Từ một mối thù chồng riêng lẻ chị đã đi đến một mối thù rộng lớn hơn, chị đã nhìn ra cả một cuộc chiến đấu chung sâu sắc, quyết liệt, lâu dài. Chị đã biết chị sẽ đi đến đâu và trên con đường đi đến đó phải tiêu diệt những kẻ thù nào". Khi các đồng chí cấp trên thay mặt Đảng giao trọng trách cho chị, là một Bí thư chị bộ, Thắm nhận thấy mình càng phải cố gắng hơn nữa, làm thế nào để nhân

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 05/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí