Giáo dục tình yêu biển đảo cho học sinh THCS huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp - 3

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TÌNH YÊU BIỂ N, ĐẢ O

CHO HOC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ THÔNG QUA

CÁ C HOAT

ĐÔNG GIÁ O DUC

NGOÀ I GIỜ LÊN LỚ P


1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài

Ở nhiều nước, nhất là các nước có nền giáo dục phát triển, công tác nghiên cứu về lịch sử biển, đảo, để thông qua đó giáo dục tình yêu quê hương, biển, đảo rất được chú trọng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Ở Nga, sau cách mạng Tháng Mười, theo chỉ thị của V.I.Lênin, văn kiện giáo dục đầu tiên của Liên bang Xô Viết (1918), đã nêu rõ nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, yêu biển cả ở trường phổ thông. Việc giáo dục tình yêu đối với quê hương, đất nước, với đồng ruộng, biển cả được tiến hành trong bài nội khóa và hoạt động ngoại khóa với khẩu hiệu: “Sống, làm việc ở làng, thành phố, vùng quê hương và đại dương Xô Viết”. Vào những năm 80 của thế kỉ XX trong các công trình: “Lịch sử Xô Viết

do G.N.Matixin chủ biên (1980); “Phương pháp giáo dục tình yêu đối với nước

Giáo dục tình yêu biển đảo cho học sinh THCS huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp - 3

Nga Xô Viết” do N.X.Bôrixôp chủ biên (1982), các tác giả đã chỉ rõ phương pháp nghiên cứu, biên soạn, giáo dục ý thức và tình cảm đối với đất nước, biển cả của nước Nga và đặc biệt “phải làm cho HS hứng thú, say mê thể hiện tình yêu với chủ quyền đất nước, chủ quyền đại dương của nước Nga, có như vậy các em mới yêu mảnh đất quê hương, mới giáo dục được truyền thống của quê hương”. [35, tr.8]

Ở Liên Hiệp Anh vốn là một quốc gia quần đảo, thì việc giáo dục thế hệ trẻ về tình yêu biển, đảo được đặc biệt quan tâm. Điều đó liên quan tới việc giáo dục chủ quyền, giáo dục lịch sử và giáo dục truyền thống ở đất nước này. Qua các công trình nghiên cứu và những chia sẻ trên những diễn đàn giáo dục như: www.balh.co.uk (website của Hiệp hội lịch sử ở Anh);

www.le.ac.uk (website của Đại học Leicester, một trung tâm nghiên cứu địa lí, lịch sử ở Anh)… có thể thấy việc giáo dục truyền thống, giáo dục tình yêu quê hương, tình yêu biển, đảo rất được coi trọng. Ngoài hình thức giáo dục

trên lớp, GV còn tổ chức giáo dục, học tập, nghiên cứu về đất nước, biển, đảo tại các di tích, bảo tàng, hướng dẫn HS trải nghiệm cuộc sống của những ngư dân, tiếp xúc trò chuyện và phỏng vấn nhân chứng và người dân địa phương đã từng đi biển.[7]

Ở Mĩ và Canada cũng là các quốc gia biển, việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trong đó có tình yêu biển, đảo đặc biệt được chú trọng, HS

ngay từ tiểu học đã được học về lịch sử, địa lí của bang, của quốc gia mình đang sống. Trong chương trình giáo dục ngoại khóa được được đưa vào khá sớm và được quy định rõ ràng trong chương trình giáo dục chuẩn chung cho

toàn bang đối với Mĩ và chuẩn quốc gia đối với Canada. Ngay từ mẫu giáo, những kiến thức lịch sử, địa lí biển, đảo của quốc gia đã được lồng ghép trong

các bài dạy của GV, nhất là các bang có tiếp giáp biển hoặc các bang là quần đảo như: Hawai, Califonia, Maiami, Quebec, ... HS mẫu giáo ở các bang này được làm quen với những kiến thức sơ đẳng về lịch sử và địa lí của bang, về

mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại thông qua các câu chuyện, nhân vật, địa

danh lịch sử gắn liền với biển, đảo ở địa phương mình đang sống. Đối với HS tiểu học, bước đầu cho các em làm quen với những nhân vật lịch sử, những tấm gương yêu nước thông qua những câu chuyện lịch sử, truyền thuyết dân gian. Từ đó xây dựng cho HS niềm tin vào tính cách, bản lĩnh của những nhân vật lịch sử, những con người có thật trong lịch sử. Đồng thời cho các em thấy những tác động, ảnh hưởng của họ đối với lịch sử phát triển của dân tộc, của bang và của biển, đảo quê hương họ. Chính từ những nhân vật đó mà hình thành tình cảm yêu mến, kính trọng đối với những anh hùng đã xả thân cho Tổ quốc, với biển và đảo quê hương các em. Để các em thêm yêu và tự hào về quê hương, đất nước mình [7].

Ở Singapo, Malaixia, Indonexia là những quốc đảo ở Đông Nam Á thì việc giáo dục tình yêu biển, đảo, ý thức môi trường biển, đảo đặc biệt được các nhà chức trách quan tâm. Trong chương trình bắt buộc của chuyên đề giáo dục về biển, đảo xuất hiện các bậc ở trường THCS và THPT, mỗi học kì ít nhất có một tiết dạy bằng phương pháp thực tế về biển, đảo, tài nguyên biển bảo, giáo dục về tình yêu và ý thức biển, đảo. Kiến thức về biển, đảo quốc gia còn được đưa vào trong nội dung kiểm tra, đánh giá. Điều này phát huy được giá trị lớn trong việc giáo dục tình yêu quê hương nơi HS theo học [7].

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

Giáo dục tình yêu biển, đảo cho HS không phải là một đề tài mới, thường được gói chung trong nội dung giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho HS ở các cấp học và đã được đề cập đến trong nhiều tài liệu.

Trong tác phẩm “Giá trị truyền thống của dân tôc

Viêt

Nam” của GS.

Trần Văn Giàu (chủ biên), NXB Khoa học xã hội (1980), khi nói đến chức năng và nhiệm vụ của nhà trường trong việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước cho thế hệ trẻ đã khẳng định “Cung cấp cho thế hệ trẻ những hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, xã hội và con người của quê hương, đất nước,... từ lòng yêu đất liền, hải đảo, yêu những thứ thân thuộc xung quanh đến lòng yêu nước, yêu CNXH, họ đã được chuẩn bị để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH ngay trên vùng đất, vùng biển quê hương”. [12, tr.56]

Trong tài liệu “Một số chuyên đề phương pháp giáo dục lịch sử truyền thống” của GS Phan Ngọc Liên, PGS Trịnh Đình Tùng, GS Nguyễn Thị Côi, TS Trần Vĩnh Tường đồng chủ biên, NXB ĐHQG Hà Nội, (2002) có chuyên đề “Giáo dục cho HS về truyền thống lịch sử nước nhà” gồm nhiều bài viết của

các tác giả có ý nghĩa lí luận và thực tiễn trong công tác giáo dục tình yêu quê hương, vùng trời, vùng biển của đất nước cho HS. Các bài viết đã khẳng định sự cần thiết của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trong đó có tình yêu biển, đảo đảo. Đặc biệt là bài: “Khai thác nội dung tình yêu nước qua hoạt

động ngoại khóa để giáo dục cho HS phổ thông” của tác giả Trần Vĩnh Tường đã nêu rõ giáo dục tình yêu nước là ưu thế của các ngoại khóa và khẳng định: “Mỗi quốc gia, dân tộc đều có cương vực lãnh thổ, chủ quyền vùng trời, vùng

biển riêng, đều gắn liền với những yếu tố địa lí, khí hậu, thời tiết,…Người dân nào cũng có tình yêu quê hương đất nước, biểu hiện cao nhất của tình yêu ấy là tinh thần đấu tranh bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền đất

liền, hải đảo, vùng trời của Tổ quốc”. Bài viết còn đề cập đến một số biện pháp cụ thể nhằm giáo dục truyền thống yêu nước cho HS.[19, tr.7]

Ngoài ra, trong một số sách tham khảo khác như quyển “Giáo dục truyền thống” của Lê Văn Tám, NXB Thanh Niên (1978) [25], hay quyển “Truyền thống yêu nước trong lịch sử Việt Nam” của Cao Minh, NXB Thanh Niên, (1999) [22], quyển “Tìm hiểu hoạt động giáo dục tình yêu nước bảo về tổ quốc qua lịch sử dân tộc từ thế kỉ X đến 1930” của tác giả Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Thị Côi, Nguyễn Thái Hoàng, NXB Quân đội (1994) [26] đều đề cập đến nội dung giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, yêu biển, đảo của Tổ quốc ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên chưa có cuốn tài liệu nào đề cập một cách toàn diện và cụ thể các hình thức cũng như biện pháp để giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho HS ở trường THCS thông qua các hoạt động GDNGLL.

Bên cạnh các tác phẩm còn có nhiều bài viết trên các tạp chí cũng đề cập đến vấn đề này. Bài “Mấy biện pháp nâng cao tính giáo dục qua một hoạt động GDNGLL” của PGS Trịnh Đình Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 5 (1988) [30], đã đề ra cách tổ chức các hoạt động GDNGLL nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình nhận thức, tăng cường hiệu quả giáo dục của giờ học đặc biệt là các nội dung giáo dục với chủ đề về tình yêu quê hương, đất nước nước. Bài “Giáo dục tình yêu biển, đảo quê hương qua những hoạt động trải nghiệm thực tế” của tác giả Mai Thị Tình, Tạp chí Nghiên cứu lic̣ h sử, số 2 (2013) [1], đã khẳng định giá trị to lớn của việc giáo

dục tình yêu biển, đảo cho HS hiện nay. Bài “Giáo dục tình yêu quê hương cho HS phổ thông qua hoạt động GDNGLL” của tác giả Lê Thị Hồng, tác giả đã nhấn mạnh đến tác dụng của hoạt động GDNGLL để giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho HS phổ thông, đưa ra một số nguyên tắc và hình thức để tiến hành giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho HS phổ thông qua hoạt động GDNGLL [15].

Ngoài ra, chúng tôi cũng tiếp cận và tham khảo các Luận án, Luận văn của nghiên cứu sinh, học viên cao học ở nhiều trường trong nước như Luận văn thạc sĩ “Giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho HS ở trường THCS tỉnh Ninh Bình” của tác giả Phạm Thị Hiền (2004) [15]. Luận văn thạc sĩ “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho HS ở trường THPT thành phố Hà Nội hiện nay”, của tác giả Trần Văn Năng (2014) [1]. Luận văn thạc sĩ “Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho HS THCS huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang” của Nguyễn Thị Định (1999) [1]. Nhìn chung, những luận văn trên đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục tình yêu quê hương đất nước, trong đó có đề cập tới giáo dục tình yêu biển, đảo cho HS trong nhà trường. Song cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học, một luận văn, luận án nào nghiên cứu sâu về giáo dục tình yêu biển, đảo cho HS trường THCS thông qua hoạt động GDNGLL. Đây cũng là mong muốn của chúng tôi được giải quyết trong phạm vi đề tài này.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Giá o duc̣

Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục đích phát triển con người và phát triển xã hội. [36]

Trong nhà trường với tư cách là một tổ chức chuyên trách thực hiện giáo dục thế hệ trẻ thì giáo dục được hiểu là hoạt động hay quá trình được tổ chức

một cách có hệ thống có mục đích với nội dung, phương pháp, phương tiện nhằm tác động đến sự phát triển tinh thần, thể chất của nhóm đối tượng nào đó, làm cho họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Các hoạt động giáo dục được thông qua những môn học trên trường, lớp cũng như qua những hoạt động như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm quan,… được tổ chức ngoài giờ lên lớp, sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác động của GV, của nhà giáo dục.

Bên cạnh đó, giáo dục theo nghĩa hẹp là một trong hai quá trình bộ phận tạo nên quá trình sư phạm tổng thể. Theo cách hiểu này thì hoạt động giáo dục tác động trực tiếp đến hệ thống giá trị, tư tưởng, tình cảm, đạo đức của đối tượng giáo dục.[36]

Như vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu rằng: Giáo dục là hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp của nhà giáo dục tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kĩ năng

và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và đạo đức cần thiết cho đối tượng

được giáo dục, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng được giáo dục tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.

1.2.2. Biển, đảo

* Biển:

Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Biển là một vùng nước mặn rộng lớn nói chung trên bề mặt trái đất. Là phần của đại dương ở ven lục địa ít nhiều bị ngăn ra bởi đất liền hoặc bởi những đảo”. [32, tr.127]

Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 định nghĩa: “Biển là phần đại dương ít nhiều bị ngăn cách bởi lục địa, các đảo hoặc vùng cao của đáy, có chế độ thủy văn riêng biệt”. [7]

Cũng theo Công ước này thì tùy theo mức độ ngăn cách với đại dương và đặc điểm chế độ thủy văn mà biển có thể phân thành 3 nhóm: Biển nội địa (còn gọi là biển kín), biển ven bờ và biển được bao quanh bởi các đảo. Biển nội địa có chế độ thủy văn khác nhiều so với đại dương; biển ven bờ có chế độ thủy văn khác rất ít so với đại dương. Biển Đông là biển ven bờ.

Nước ta là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển) đứng đầu các nước Đông Dương, trên Thái Lan và xấp xỉ Malaysia. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2).

* Đảo:

Theo Từ điển tiếng Việt thì: “Đảo là khoảng đất lớn có nước bao quanh, ở sông hồ, biển hoặc đại dương”. “Đảo” hay “hòn đảo” là phần đất được bao quanh hoàn toàn bởi nước nhưng không phải là một lục địa; tuy vậy, không có một kích thước chuẩn nào để phân biệt giữa đảo và lục địa. [32, tr.253]

Theo điều 121 của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đưa ra định nghĩa về “đảo” như sau: “1. Đảo là một vùng đất hình thành một cách tự nhiên có nước bao bọc, khi thuỷ triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.

2. Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của một hòn đảo được xác định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. 3. Những đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.” [7]

Bên cạnh khái niệm “đảo” khái niệm “quần đảo” cũng quan trọng. Theo điều 46 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 thì “quần đảo” được định nghĩa như sau: “Quần đảo là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lí, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.”[7]

Hiện nay, nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa được phân bố khá đều theo chiều dài bờ biển của đất nước, có vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông đất nước; một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,

vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lí để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.

* Tầm quan trọng của biển, đảo đối với đất nước:

Với đặc điểm biển, đảo như trên mà nước ta có địa chính trị và địa kinh tế rất quan trọng, không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có.

Về kinh tế - xã hội: Biển, đảo nước ta nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Ngoài ra sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi. Vùng biển, đảo nước ta có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ khí đốt. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ lượng khai thác công nghiệp, trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ, hàng năm cung cấp hàng chục triệu tấn dầu và hàng tỉ

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí