Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 2


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.1.1 Khái niệm

Trong nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, do tính chất vận động của các nguồn vốn hàng hóa, tiền tệ và sự độc lập tương đối của tiền tệ, nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn tiền tệ. Để giải quyết căn bản mâu thuẫn đó tín dụng đã xuất hiện như là một hiện tượng tất yếu khách quan. Biểu hiện bên ngoài của quan hệ tín dụng trước hết đó là sự chuyển giao quyền sử dụng vốn theo thời hạn giữa chủ thể sở hữu chúng nhưng chưa có nhu cầu sử dụng với chủ thể đang có nhu cầu sử dụng nhưng chưa có đủ khả năng tạo lập. Hay nói một cách cụ thể hơn tín dụng được biểu hiện trước hết là sự vay, mượn tạm thời một số vốn tài sản hàng hóa hay tiền tệ mà qua đó người đi vay có thể có được quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định theo cam kết giữa các bên. Như vậy quan hệ tín dụng là một quan hệ xã hội biểu hiện thông qua các liên hệ về kinh tế, trong đó yếu tố lòng tin được xem như đặc trưng cơ bản nhất.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn chỉnh của thị trường, từ thấp tới cao quan hệ tín dụng cũng ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Trong nền kinh tế thị trường đã và đang tồn tại nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, TDNH và các hình thức tín dụng kết hợp khác... Tuy nhiên TDNH với các đặc trưng riêng vẫn được coi là hình thức tín dụng cơ bản và giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống tín dụng.

Vậy có thể hiểu: Tín dụng NHTM là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các NHTM với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định.

1.1.1.2 Phân loại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Trong nền kinh tế hiện đại, các NHTM phân loại tín dụng theo các tiêu thức cơ bản sau:

* Theo mục đích sử dụng tiền vay: Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia tín dụng ra thành hai loại:

Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 2

- Tín dụng đối với sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp tín dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất lưu thông hàng hóa.


- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền như máy giặt, điều hòa, tủ lạnh,…

* Theo thời hạn sử dụng tiền vay: Theo cách này TDNH phân làm ba loại:

- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp. Nó có thể được vay cho những sinh hoạt cá nhân.

- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1 - 5 năm. Loại tín dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật , mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.

- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại tín dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các công trình mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần bổ sung cho vốn lưu động thường xuyên

*Theo hình thức đảm bảo tín dụng: Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:

- Đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng được ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có tài sản đảm bảo như thế chấp, cầm cố, hoặc cần có bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo, sự đảm bảo này là căn cứ kinh tế để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù đắp lại khoản tiền vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ.

- Đảm bảo không bằng tài sản: là loại tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không cần đòi hỏi nguồn thu nợ bổ sung. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc truy đòi các khoản nợ có vấn đề phát sinh.

Ngoài ra tín dụng có thể phân theo: loại tiền, phạm vi quốc gia, cơ cấu vốn tín dụng tham gia, đối tượng tạo lập của vốn vay.

1.1.1.3 Đặc điểm của hoạt động tín dụng

- Trong hoạt động tín dụng, các NHTM đóng vai trò là tổ chức trung gian:

Các NHTM đóng vai trò là tổ chức trung gian tức là các NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.


Khi huy động, các NHTM sử dụng các hình thức huy động khác nhau để thu hút mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để tạo lập nguồn vốn kinh doanh, lúc này NHTM đóng vai trò là người đi vay lớn nhất trong nền kinh tế.

Khi cho vay, các ngân hàng lại dùng chính nguồn vốn đã huy động được để cho vay lại đối với nền kinh tế, lúc này ngân hàng lại đóng vai trò là người cho vay lớn nhất trong nền kinh tế.

- Huy động vốn và cho vay của NHTM đều chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ:

Trong quan hệ TDNH, các NHTM bằng cơ chế thích hợp, huy động các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ cho vay của ngân hàng. Như vậy, tiền ở đây là công cụ thực hiện tín dụng, đó là loại tiền tín dụng hay còn gọi là công cụ lưu thông TDNH.

- Quá trình vận động và phát triển của TDNH độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội:

Vốn tín dụng là bộ phận không thể thiếu trong quá trình vận động của mọi hoạt động xã hội nói chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên, do tính độc lập tương đối của tiền tệ trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cho nên người ta thường quan niệm vốn TDNH có tính độc lập tương đối với quá trình tái sản xuất xã hội. Bởi vì trong quá trình vận động, vốn TDNH có thể tham gia vào bất cứ một giai đoạn nào của chu kỳ vận động, song dường như đều dễ nhìn thấy đó là ở giai đoạn đầu (dưới hình thức các nhu cầu chi phí bằng tiền) và giai đoạn kết thúc (dưới hình thức các khoản thu nhập bằng tiền của quá trình tái sản xuất). Do đó khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng (cân đối hàng hóa - tiền tệ) nguồn vốn tín dụng vận động theo sự vận động của các nguồn vốn của quá trình tái sản xuất (T - H hoặc H - T). Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức nhất định tất yếu nảy sinh mâu thuẫn trong quá trình chu chuyển vốn là nhu cầu vốn bằng tiền không tương thích với nhu cầu hàng hóa trong trao đổi. Khi đó với chức năng "trung gian tín dụng" và với các công cụ huy động vốn, cho vay, thanh toán để góp phần đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng theo các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Do đó, có thể khẳng định sự vận động và phát triển của TDNH chịu sự tác động và phụ thuộc vào quá trình vận động của quá trình tái sản xuất xã hội, nhưng có tính độc lập tương đối với quá trình đó. Cho nên trong thực tế TDNH thường được coi là một công cụ hữu hiệu để thúc đẩy tăng trưởng, hoặc điều chỉnh, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.

- Phạm vi hoạt động của TDNH là toàn bộ nền kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường hầu như mọi quan hệ trao đổi đều có thể "tiền tệ hóa ", do vậy với công cụ thực hiện chủ yếu là "quyền sử dụng tiền tệ" nên TDNH có thể tham gia vào mọi quan hệ xã hội. Điều đó được biểu hiện ra bên ngoài là các


NHTM có thể thực hiện huy động vốn tiền tệ, cho vay vốn và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho hầu hết mọi chủ thể trong xã hội. Có nghĩa là TDNH có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng tiền cho mọi đối tượng, mọi phạm vi, mọi khoảng thời gian của toàn xã hội. Tuy nhiên sự thỏa mãn đó phải nằm trong sự điều chỉnh chung của nhà nước và sự ràng buộc của pháp luật trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể của nền kinh tế.

- Doanh số hoạt động tín dụng lớn, các hình thức tín dụng đa dạng, nhiều

rủi ro:

Doanh số hoạt động tín dụng lớn vì hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Dư nợ tín dụng thường chiếm trên 50% tổng tài sản của ngân hàng thương mại và thu nhập từ tín dụng thường chiếm 50% - 70% tổng thu nhập của Ngân hàng thương mại. Bên cạnh việc đem lại thu nhập chính cho ngân hàng thì rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng với các hình thức tín dụng rất đa dạng. Chính vì vậy mà hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm lớn nhất của các ngân hàng thương mại cũng như thanh tra ngân hàng.

Độ rủi ro của hoạt động tín dụng là khá cao vì nó phụ thuộc khả năng tài chính của khách hàng, đặc biệt khách hàng cá nhân thường thay đổi nhanh chóng tùy theo tình trạng công việc và sức khỏe của họ. Ngoài ra, các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không chính xác và khó kiểm soát. Vì thế, ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro nếu người vay mất khả năng thanh toán. Trên thực tế, các khoản vay có tài sản đảm bảo hoặc có người thứ ba bảo lãnh sẽ làm tăng mức độ tin cậy hơn, đồng thời giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro hơn so với các khoản vay không có tài sản đảm bảo.

1.1.1.4 Vai trò của hoạt động tín dụng

Tín dụng là mối quan hệ kinh tế nên có tác động nhất định đối với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người.

TDNH ra đời xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong nền kinh tế luôn làm phát sinh hiện tượng có những chủ thể tạm thời thừa vốn và những chủ thể khác tạm thời thiếu vốn. TDNH đã giải quyết được mâu thuẫn giữa cung cầu về vốn, là sự cần thiết khách quan phù hợp với sự vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Khối lượng TDNH chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng như lưu thông tiền tệ. TDNH trong nền kinh tế thị trường được cụ thể hóa bằng các vai trò sau đây.

Thứ nhất, đối với bản thân ngân hàng


- Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng được hình thành chủ yếu bởi chênh lệch giữa lãi cho vay với lãi suất huy động và một số các khoản phí khác theo quy định, khoản thu nhập này là phần thu nhập đáng kể trong tổng thu nhập của các NHTM. Đặc biệt ở các nước chưa có thị trường vốn phát triển thì hoạt động cho vay truyền thống vẫn được coi như hoạt động bao trùm nhất trong kinh doanh của NHTM. Do đó thu nhập từ cho vay có thể được xem như khoản thu nhập chính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, tuy nhiên hoạt động tín dụng lại là hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn nhất trong kinh doanh ngân hàng nên các NHTM thường rất coi trọng và nâng cao chất lượng QTRRTD.

- Hoạt động tín dụng góp phần đa dạng hóa HĐKD của ngân hàng, giúp ngân hàng mở rộng đối tượng và phạm vi đầu tư từ đó giảm thiểu rủi ro trong HĐKD của ngân hàng.

Trước hết chúng ta thấy quan hệ tín dụng là quan hệ lớn nhất và quan trọng nhất trong các quan hệ với khách hàng của ngân hàng. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng các ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cung ứng cho chính bản thân họ. Thông qua hoạt động huy động vốn (nhất là hoạt động tiền gửi) ngân hàng có thể tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tiền tệ như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thu hộ, chi hộ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ két sắt,… và các dịch vụ tiền tệ khác có liên quan. Thông qua hoạt động cho vay ngân hàng có thể tạo ra các dịch vụ liên quan như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ,… Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển thì hầu hết các NHTM đều xây dựng chiến lược phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại để lần lượt thay thế cho các sản phẩm kinh doanh truyền thống, và coi đây là chiến lược kinh doanh chủ yếu nhất trên thị trường.

Thứ hai, đối với khách hàng

- TDNH đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất được liên tục: Trong nền kinh tế, có nhiều chủ thể kinh tế hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, mỗi chủ thể, mỗi ngành kinh tế lại có chu kỳ sản xuất khác nhau, trong khi đó, quá trình tái sản xuất xã hội lại diễn ra liên tục trên cơ sở phân công lao động và hợp tác trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, tất yếu xảy ra tình trạng nơi tạm thời thừa vốn, nơi tạm thời thiếu vốn. Với tư cách là trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, và cho vay đối với các thành phần đang tạm thời thiếu vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Điều này có nghĩa là TDNH là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động theo phương châm "đi vay để cho vay", TDNH không những đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra bình thường, mà còn đẩy nhanh quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, mở rộng sản


xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ sản xuất mới, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.

- TDNH góp phần thúc đẩy phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh thêm năng động và có hiệu quả hơn: Hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vận động để phù hợp với những biến động của thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng và phải hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, do đó doanh nghiệp cần tìm hiểu và đầu tư vốn vào những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao, qua đó vừa duy trì được hoạt động của mình, vừa hoàn trả được vốn vay ngân hàng. Bên cạnh đó, TDNH cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển vốn, góp phần thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh. TDNH thực sự là công cụ kinh tế quan trọng góp phần tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ hữu hiệu, và các sản phẩm dịch vụ tiện ích phục vụ đắc lực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là công cụ điều tiết có hiệu quả của nhà nước để tác động vào mọi HĐKD theo các mục tiêu chung của nền kinh tế, từ đó làm cho các hoạt động kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động và linh hoạt hơn.

Thứ ba, đối với nền kinh tế

Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng trong nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế hiện nay. Hoạt động tín dụng tồn tại khách quan với tư cách là người mở đường, người tham gia quyết định mọi quá trình sản xuất, tập trung nguồn vốn nhàn rỗi ngoài lưu thông dưới dạng tiết kiệm đem lại đầu tư để phục vụ phát triển kinh tế.

- Hoạt động TDNH là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế: Là trung gian điều hòa cung cầu về vốn cho nền kinh tế, hoạt động tín dụng là cầu nối giữa các dòng vốn tạm thời thừa với các nhu cầu vốn tạm thời thiếu. Qua thực tế chúng ta có thể nhận thấy khi các quan hệ hàng hóa - tiền tệ ngày càng phát triển thì các quan hệ về tín dụng cũng ngày càng phát triển, ngược lại các quan hệ tín dụng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú là điều kiện hỗ trợ và kích thích các quan hệ hàng hóa - tiền tệ cũng phát triển hơn.

Các doanh nghiệp HĐKD không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự có. Bởi lẽ trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể thừa vốn ở giai đoạn này nhưng lại thiếu vốn ở giai đoạn khác. Trong quá trình chu chuyển vốn đó tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn có thể xuất hiện trong nhiều khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Song xu thế chung cho ta thấy tình trạng thiếu vốn trong ngắn hạn và cả trong dài hạn ở các doanh nghiệp là mang tính phổ biến.

Bởi hoạt động TDNH có tính bao trùm cả xã hội do đó các NHTM có thể "mua về" và "bán ra" với một khối lượng vốn lớn tương đương với cả tổng nguồn


vốn đầu tư trong xã hội theo quan hệ cung - cầu vốn tín dụng. Qua đó NHTM có thể tiếp nhận được hầu hết mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội và lại dùng chính nguồn vốn đó để thỏa mãn các nhu cầu vốn tạm thời thiếu cho chính các chủ thể đó, khi có quan hệ vay vốn với ngân hàng, vì vậy khả năng thỏa mãn các nhu cầu vốn qua kênh tín dụng lớn hơn nhiều so với các kênh phân phối khác. Mặt khác thông qua sự vận dụng lãi suất linh hoạt (cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) và các công cụ khác, TDNH còn góp phần định hướng đầu tư, xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể, giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị, và có thể lượng hóa rõ hơn các rủi ro có thể xảy ra trong sản xuất kinh doanh.

Đồng thời cũng có thể thông qua TDNH, nhà nước có thể vận dụng nhiều biện pháp ưu đãi cho doanh nghiệp (hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh, cho vay chỉ định,…) để giải quyết các khó khăn về tài chính trong điều kiện nền kinh tế có những biến động lớn.

TDNH tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường vốn ngắn hạn. Thông qua việc huy động vốn và cho vay tín dụng đã góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn xã hội thông qua việc điều tiết các vốn chậm sang chỗ có vòng chu chuyển vốn nhanh hơn. Đồng thời thông qua hoạt động TDNH có thể tạo ra nhiều công cụ lưu thông (như kỳ phiếu ngân hàng) và nhiều dịch vụ tiện ích (chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh,…) phục vụ đắc lực cho quá trình vận động vốn của mọi chủ thể trên thị trường. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển mở rộng thị trường vốn ngắn hạn.

- Hoạt động TDNH góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng các nhu cầu trao đổi:

Ngân hàng trung ương (NHTW) thông qua quan hệ tín dụng để điều tiết khối lượng cho vay tại các tổ chức tín dụng (TCTD). Với vai trò là người cho vay cuối cùng, việc mở rộng hay thu hẹp cửa sổ chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến quy mô tín dụng, từ đó sẽ tác động đến khối lượng cho vay của các TCTD. Thông qua hoạt động tín dụng, NHTW có thể sử dụng NHTM như là chiếc "cầu nối" giữa nhà nước với thị trường thông việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để từ đó có thể điều tiết được khối lượng tiền cung ứng. Đồng thời thông qua hoạt động của NHTM, NHTW có thể thu nhận các dấu hiệu, các thông tin thị trường để từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời và phù hợp với thực tế về cung - cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong nền kinh tế đang có lạm phát hay bất ổn định. Như vậy, NHNN thông qua cửa sổ chiết khấu đã tác động tới khối lượng cho vay của các TCTD, từ đó quản lý được lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đạt được các mục tiêu như mong muốn.

Hoạt động điều tiết được thực hiện bởi việc thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như lãi suất, tái chiếu khấu, hoạt động thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,


dự trữ thanh toán… Chính phủ có thể kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền.

- TDNH là góp phần thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để có thể đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và khoa học công nghệ thì cần phải có vốn. Việc đầu tư này ngoài nguồn vốn của ngân sách nhà nước (NSNN) thì cũng có một phần vốn đóng góp không nhỏ của các TCTD. Thực tế cho thấy ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam thì TDNH là một công cụ tài trợ đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- TDNH là công cụ thực hiện chính sách xã hội:

Các chính sách xã hội có thể được tài trợ bởi phương thức tài trợ không hoàn lại NSNN. Tuy nhiên, phương thức này thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Vì thế hiện nay phương thức tài trợ không hoàn lại đã bị thay thế dần bởi phương thức tài trợ có hoàn lại. Thông qua phương thức này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một cách chủ động và có hiệu quả hơn. Mặt khác thông qua việc sử dụng các công cụ tín dụng như lãi suất, thời hạn, hạn mức tín dụng,… đã tác động mạnh vào các đối tượng chính sách được tài trợ buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động của họ cũng được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với các nguồn tài trợ.

- Hoạt động TDNH thúc đẩy phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại: Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động sản xuất hàng hóa càng đa dạng và phong phú. Các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp quan hệ kinh doanh trong phạm vi một quốc gia mà đã mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp nước ngoài. Nhờ có hoạt động tín dụng mà cụ thể hơn là bảo lãnh ngân hàng đã tạo cơ hội cho sự phát triển của các doanh nghiệp, nâng cao vị thế của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, từ đó mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đa số các NHTM hiện nay đều mở các ngân hàng đại lý bên nước ngoài để phục vụ khách hàng quốc tế trong hoạt động thanh toán thẻ, cho vay cá nhân và các tổ chức nước ngoài.

TDNH đã trở thành một trong những phương tiện để nối liền kinh tế của các nước với nhau. Đặc biệt với các nước đang phát triển, TDNH đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển TDNH luôn được coi là một trong các biện pháp cơ bản để điều hòa các dòng vốn trong xã hội và đáp ứng các yêu cầu trong sử dụng vốn của nền kinh tế. Thực tế cho chúng ta thấy


TDNH thực sự là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa tiêu dùng và sản xuất, giữa trong nước và quốc tế,… Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, chất lượng TDNH nói riêng không chỉ là vấn đề quan tâm của các NHTM mà thực sự là vấn đề lớn của cả nền kinh tế trong điều kiện hiện nay.

1.1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng

RRTD gắn liền với hoạt động tín dụng, là hoạt động cơ bản của ngân hàng và đem lại nguồn thu chủ yếu của ngân hàng hiện nay, có thể gây tổn thất về tài chính, về kinh tế mà tác động trực tiếp là làm giảm lãi, giảm giá trị thị trường về vốn, trong trường hợp nghiêm trọng hơn có thể làm HĐKD của ngân hàng bị thua lỗ, thậm chí là phá sản ngân hàng. Có nhiều khái niệm về RRTD được ghi nhận trong các tài liệu nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, có thể dẫn ra như sau:

Theo Joel Bessis đưa ra khái niệm về RRTD trong cuốn Quản trị rủi ro trong ngân hàng: “RRTD là rủi ro quan trọng nhất trong ngân hàng. Đó là rủi ro đối tác sẽ vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Theo các quy định, RRTD chia thành một vài thành phần RRTD: rủi ro vỡ nợ; rủi ro giảm uy tín; rủi ro nguy cơ nguy cơ, tức là sự bất trắc về giá trị tương lai của khoản tiền có thể thua lỗ vào thời điểm vỡ nợ chưa biết; thua lỗ do vỡ nợ thường ít hơn lượng tiền phải trả bởi vì sự hồi phục nhờ đảm bảo hay thế chấp của bên thứ ba; rủi ro đối tác là hình thức RRTD cụ thể xuất phát từ phái sinh, có thể chuyển đổi từ đối tác này sang đối tác khác” [62, tr.42-43].

Quan điểm của A.Saunder và H.Langge thì: “RRTD là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngan hàng không thể thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời gian” [58].

Theo định nghĩa của Ủy ban Basel thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế: “RRTD là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thỏa thuận”.

Quan điểm của Timmothy W.Koch: “RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn”

Theo [24], RRTD được định nghĩa như sau: “RRTD trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện được hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

Như vậy, đứng trên nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận thì RRTD có thể được diễn đạt dưới các hình thức khác nhau, song các khái niệm, các quan điểm đều tựu chung về bản chất của RRTD đó là: RRTD là khả năng xảy ra tổn thất, thiệt hại về kinh


tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi hoặc hoàn trả không đúng hạn.

1.1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng

Có nhiều cách phân loại và tiếp cận RRTD khác nhau, sau đây là một số cách phân loại phổ biến:

- Căn cứ vào nguồn gốc của RRTD có thể chia RRTD làm 2 nhóm: rủi ro đạo đức và rủi ro do sự lựa chọn đối nghịch;

+ Rủi ro đạo đức: là rủi ro do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Vì lợi ích cá nhân mà bên cho vay đã bỏ qua các thông tin không tin cậy về năng lực trả nợ của bên đi vay hoặc bên đi vay đã cố tình không tuân thủ các quy định trong thỏa thuận vay, không cung cấp các thông tin có thể ảnh hưởng đến năng lực trả nợ trong quá trình sử dụng vốn vay.

+ Rủi ro do sự lựa chọn đối nghịch: là rủi ro do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi cuộc giao dịch diễn ra. Bên cho vay tin tưởng vào năng lực của người vay mà cho vay trong khi người đi vay với mục đích để vay được vốn đã cung cấp thông tin không trung thực cho bên cho vay.

- Căn cứ vào mức độ tổn thất, có thể chia RRTD ra làm 2 loại là rủi ro mất vốn và rủi ro đọng vốn;

+ Rủi ro mất vốn: Rủi ro mất vốn là rủi ro khi người vay không có khả năng trả được nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc hoặc lãi vay, ngân hàng chỉ trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro mất vốn sẽ làm (i) tăng chi phí do nợ khó đòi tăng, chi phí quản trị, chi phí giám sát (ii) giảm lợi nhuận do các khoản dự phòng gia tăng cho những khoản vốn mất đi.

+ Rủi ro đọng vốn: Rủi ro đọng vốn là rủi ro xảy ra trong trường hợp đến hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi vốn vay, dẫn đến các khoản vốn bị đông cứng và ảnh hưởng đến ngân hàng trên hai phương diện: (i) ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, (ii) gặp khó khăn cho việc thanh toán cho khách hàng.

- Căn cứ theo đối tượng sử dụng, có thể chia làm ba nhóm:

+ Rủi ro khách hàng cá thể: RRTD xảy ra đối với đối tượng khách hàng là cá

nhân.

+ Rủi ro công ty, tổ chức kinh tế, định chế tài chính: RRTD xảy ra đối với

khách hàng là công ty, tổ chức kinh tế, định chế tài chính.

+ Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: RRTD xảy ra đối với từng quốc gia đối với hoạt động vay nợ, viện trợ.

- Căn cứ phạm vi của RRTD, có thể phân RRTD thành rủi ro cá biệt và rủi ro hệ thống. Trong thực tiễn hoạt động tín dụng, cách phân loại RRTD theo phạm vi rủi ro sẽ giúp cho ngân hàng đưa ra các giải pháp quản trị rủi ro phù hợp và hữu hiệu nhất.


+ RRTD cá biệt: là RRTD xảy ra đối với một khoản vay của một khách hàng cụ thể, thuộc một nhóm ngành cụ thể. RRTD cá biệt xảy ra do một số nguyên nhân:

(i) Đặc điểm ngành và loại hình kinh tế của khách hàng: (ii) Tình hình tài chính của khách hàng, (iii) Khả năng quản trị của khách hàng, (iv) Đạo đức khách hàng, (v) Các nguyên nhân khác... Tóm lại, việc nghiên cứu rủi ro cá biệt sẽ giúp ngân hàng đa dạng hóa hoạt động tín dụng để giảm thiểu rủi ro, đem lại hiệu quả cho ngân hàng.

+ RRTD hệ thống: là RRTD xảy ra không chỉ đối với một ngân hàng mà mang tính chất hệ thống, lan truyền đến cả khu vực ngân hàng. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống bao gồm: sự thay đổi chính sách thể hiện ở chính sách tài chính tiền tệ, chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu; các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế ảnh hưởng đến rủi ro hệ thống bao gồm: tỉ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, GDP, chỉ số chứng khoán, chỉ số giá tiêu dùng; luật pháp và môi trường đầu tư và các yếu tố bất khả kháng. Để hạn chế rủi ro này, thay vì đa dạng hóa hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác dự báo tình hình kinh tế vĩ mô, các tác động của lạm phát, thất nghiệp, các chính sách sắp đến của Chính phủ và chủ động đưa ra các giải pháp quản trị rủi ro phù hợp.

- Căn cứ vào giai đoạn phát sinh rủi ro, chia làm ba nhóm: Rủi ro trước khi cho vay, rủi ro trong khi cho vay và rủi ro sau khi cho vay.

+ Rủi ro trước khi cho vay: Rủi ro xảy ra khi ngân hàng phân tích đánh giá sai về khách hàng dẫn đến cho vay các khách hàng không đủ điều kiện đảm bảo khả năng trả nợ trong tương lai.

+ Rủi ro trong khi cho vay: Rủi ro này xảy ra trong quy trình cấp tín dụng. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro này bao gồm: (i) việc giải ngân không đúng tiến độ

(ii) không cập nhật thông tin khách hàng thường xuyên và (iii) không dự báo được rủi ro tiềm năng. Khách hàng cố tình không trả nợ vay hoặc cung cấp thông tin không trung thực về khả năng trả nợ.

+ Rủi ro sau khi cho vay: Rủi ro này xảy ra khi mà cán bộ tín dụng không nắm được tình hình sử dụng vốn vay, khả năng tài chính tương lai của khách hàng.

- Căn cứ vào quy mô ảnh hưởng của RRTD đến hoạt động của ngân hàng, RRTD được chia thành rủi ro khoản vay và rủi ro danh mục.

+ Rủi ro khoản vay: Là rủi ro được đánh giá đối với mỗi khoản vay, mức độ rủi ro khoản vay được đánh giá đơn lẻ và mức độ ảnh hưởng thường được giới hạn do quy mô khoản vay.

+ Rủi ro danh mục: Là rủi ro được đánh giá đối với một danh mục các khoản vay có tính chất tương đồng (đối tượng khách hàng, đối tượng cho vay hay tính chất khoản vay…). Việc đánh giá rủi ro danh mục có vai trò quan trọng vì mức độ ảnh hưởng lan tỏa và quy mô tín dụng lớn.

1.1.2.3 Nguyên nhân của rủi ro tín dụng


Các nguyên nhân khách quan:

Nguyên nhân từ môi trường chính trị và pháp lý

Môi trường chính trị có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tình hình chính trị xã hội không ổn định thì không chỉ riêng các khách hàng sản xuất mà cả các ngân hàng cũng khó có thể yên tâm tập trung vào đầu tư, mở rộng kinh doanh, đặc biệt là mở rộng tín dụng. Hơn nữa, sự bất ổn về chính trị xã hội sẽ dẫn đến sự mất lòng tin của dân chúng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước, ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Môi trường pháp lý cũng có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình QTRRTD của ngân hàng. Xác lập một khuôn khổ pháp luật đồng bộ, nhất quán điều chỉnh các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường được xem như là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường hoạt động có hiệu quả. Chính vì vậy, nhân tố pháp lý có vị trí rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Các quy định phù hợp sẽ tạo điều kiện phát triển hoạt động của các ngân hàng an toàn nhưng nếu các quy định không phù hợp sẽ dẫn đến sự kìm hãm phát triển, trong đó bao gồm cả việc ảnh hưởng đến mức độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng.

Nguyên nhân từ môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế được phản ánh qua chu kỳ kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô từng thời kỳ và tác động của xu thế toàn cầu hóa, cụ thể:

Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Khi nền kinh tế tăng trưởng và ổn định thì hoạt động tín dụng sẽ tăng trưởng và ít rủi ro hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái và khủng hoảng thì hoạt động tín dụng gặp khó khăn và rủi ro cao. Trong thời kỳ nền kinh tế phát triển với tốc độ chậm, biểu hiện tính suy thoái, sản xuất kinh doanh của các khách hàng bị thu hẹp, không hiệu quả và gặp nhiều khó khăn, nhiều khách hàng bị thua lỗ và bị phá sản. Nếu ngân hàng lúc này vẫn tiếp tục tăng trưởng tín dụng ở mức cao thì khả năng rủi ro, không thu được nợ sẽ tăng lên.

Chính sách kinh tế của Chính phủ thông qua những quy định như về thuế, chính sách xuất nhập khẩu… sẽ gián tiếp gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng bởi các chính sách này tác động trực tiếp đến HĐKD của các khách hàng của ngân hàng. Khi chính phủ có chính sách ưu đãi như giảm thuế, bảo hộ hàng sản xuất trong nước của một ngành nào đó bằng cách đề ra hạn ngạch xuất khẩu, hoặc cấm nhập hay tăng thuế nhập khẩu và ngược lại, đưa ra chính sách giữ giá hay phá giá đồng nội tệ thì cũng gián tiếp gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Một đất nước mà các chính sách kinh tế thường xuyên thay đổi, khó dự đoán sẽ gây tác động xấu đến HĐKD của các khách hàng và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng đối với ngân hàng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/04/2022