Bảng Phân Tích Các Dạng Mô Hình Qtrr Tín Dụng Dưới Góc Độ Nghiên Cứu Tổng Thể


Character (Thái độ, sự thể hiện của khách hàng) Là ấn tượng chung khách hàng để lại đối với ngân hàng. Ấn tượng này có thể là khá chủ quan.Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đối với nhiều ngân hàng, thái độ của khách hàng quyết định liệu một khoản vay nhỏ có được phê duyệt hay không. Các vấn đề chủ yếu liên quan đến thái độ đáng ngờ bao gồm: sự kém hợp tác với ngân hàng, lừa dối, các vụ kiện tụng và thua lỗ. Thời gian, chi phí kiện tụng và chi phí cơ hội có thể phát sinh do khoản vay gặp vấn đề có thể lớn hơn nhiều so với thu nhập dự tính (Vấn đề này, tuy nhiên, trở nên kém quan trọng hơn đối với các khoản vay cho công ty lớn được điều hành bởi một nhóm cá nhân). Ngoài ra, một số yếu tố định tính khác như trình độ học vấn, kinh nghiệm điều hành kinh doanh, phẩm chất cá nhân của khách hàng cũng được xem xét

Conditions (Các điều kiện khác) Liệu khoản vay sẽ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động, mua sắm máy móc hay dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho? Ngân hàng sẽ đánh giá tình hình kinh tế trong và ngoài nước, phân tích ngành kinh doanh doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các ngành hoạt động liên quan có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp

Mô hình 2: Mô hình đo lường RRTD định lượng:

Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá RRTD. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại hơn, đó là lượng hóa RRTD. Sau đây là một số mố hình lượng hóa RRTD thường được sử dụng nhiều nhất

* Mô hình điểm số Z:

Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với người vay và phụ thuộc vào: (i) Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj); (ii) tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ, mô hình được mô tả như sau:

Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.6X4 + 1.0 X5

Trong đó : X1: tỷ số “vốn lưu động ròng/tổng tài sản” X2: tỷ số “lợi nhận giữ lại/tổng tài sản”

X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản” X4: tỷ số “thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5: tỷ số “doanh thu/tổng tài sản”

Trị số Z càng cao thì nguời vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.

- Z < 1.8: Khách hàng có khả năng rủi to cao

- 1.8 < Z < 3: Không xác định được

- Z > 3: Khách hàng không có khả năng vỡ nợ


Bất kỳ khách hàng nào có điểm số Z<1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao và ngân hàng sẽ không cấp tín dụng

Theo mô hình thì bất cứ khách hàng nào có điểm số Z thấp hơn 1.81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao và ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng này cho đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1.81

- Ưu điểm của mô hình: Kỹ thuật đo lường RRTD tương đối đơn giản.

- Nhược điểm:

+ Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành hai nhóm là “vỡ nợ” và “không vỡ nợ”. Tuy nhiên trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay, đến việc không hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay

+ Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm quan trọng của các chỉ số trong công thức là bất biến. Tương tự như vậy, bản thân các chỉ số được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính thay đổi liên tục

+ Mô hình không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay như danh tiếng khách hàng, mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến động của các chu kỳ kinh tế.

* Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:

Ngoài mô hình điểm số Z, hiện nay nhiều ngân hàng còn sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý các đơn xin vay của người tiêu dùng như: mua sắm xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản và kinh doanh nhỏ. Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, tài khoản cá nhân, thời gian làm việc…

Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục, mỗi hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10.

- Ưu điểm: mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng.

- Nhược điểm: mô hình không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình, do đó có thể đe dọa đến chương trình tín dụng của ngân hàng bỏ sót những khách hàng lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng và dịch vụ ngân hàng.

* Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s:

RRTD hay rủi ro không hoàn được vốn trái phiếu của công ty thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu. Những đánh giá này được chuẩn bị bởi một


số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó Moody’s và Standard & Poor’s là những dịch vụ tốt nhất.

Bảng 1.1 Xếp hạng tín dụng



Xếp hạng

Tình trạng

Moody’s

Aaa

Chất lượng cao nhất


Aa

Chất lượng cao


A

Chất lượng vừa cao hơn


Baa

Chất lượng vừa


Ba

Nhiều yếu tố đầu cơ


B

Đầu cơ


Caa

Chất lượng kém


Ca

Đầu cơ có rủi ro cao


C

Chất lượng kém nhất

Standard & Poor’s

AAA

Chất lượng cao nhất


AA

Chất lượng cao


A

Chất lượng vừa cao hơn


BBB

Chất lượng vừa


BB

Chất lượng vừa thấp hơn


B

Đầu cơ


CCC-CC

Đầu cơ có rủi ro cao


C

Trái phiếu có lợi nhuận


DDD-D

Không hoàn được vốn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 4

Nguồn: [22]

Đối với Moody’s xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor’s thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody’s) và AA (Standard & Poor’s) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng khoán trong bốn loại đầu được xem như loại chứng khoán nên đầu tư, còn các loại chứng khoán bên dưới được xếp hạng rác rưởi (junk). Nhưng do có mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nên tuy việc xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng có lợi nhuận cao nên đôi lúc khách hàng chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán này.

b. Theo tiêu chí tổ chức quản lý rủi ro:

Hiện nay, theo tiêu chí tổ chức quản lý rủi ro có hai mô hình phổ biến được áp dụng. Đó là mô hình QTRRTD tập trung và mô hình QTRRTD phân tán. Ngoài ra còn có mô hình kết hợp giữa tập trung và phân tán, tức là tùy từng lĩnh vực, ngành nghề,


loại hình sản phẩm dịch vụ hay khách hàng có thể áp dụng mô hình quản trị tập trung tại Hội sở hay phân cấp xuống từng chi nhánh.

Mô hình 3. Mô hình quản trị rủi ro tập trung

- Khái niệm: Mô hình quản trị rủi ro tập trung là cách thức tổ chức quản trị rủi ro dựa trên nguyên tắc tập trung tại một bộ phận, quyền quyết định và quản trị rủi ro khoản vay tập trung ở Hội sở.

- Đặc điểm của mô hình quản trị rủi ro tập trung

Một là, thông tin về hoạt động ngân hàng tập trung cao tại Hội sở trên cơ sở đó Hội sở có thể xây dựng, kiểm tra các mục tiêu và tầm nhìn chiến lược, xác định mô hình QTRRTD của ngân hàng.

Hai là, mô hình quản trị rủi ro ra đời dựa trên nguyên tắc chính là tách biệt giữa 3 chức năng: chức năng kinh doanh, chức năng quản trị rủi ro, chức năng tác nghiệp. Theo đó, về tổ chức, phòng Tín dụng được thành lập thành 3 phòng hoặc 3 bộ phận khác nhau thể hiện 3 chức năng: kinh doanh, quản trị rủi ro và tác nghiệp. Mô hình được thể hiện theo sơ đồ sau:

KHỐI TÍN DỤNG

(bao gồm các chức năng)

Chức năng

kinh doanh

Chức năng quản trị

RRTD

Chức năng

tác nghiệp


Bộ phận quan hệ khách hàng

Bộ phận quản lý rủi ro

tín dụng

Bộ phận quản lý nợ và thống kê, báo cáo

Sơ đồ 1.1: Mô hình QTRRTD tập trung

+ Bộ phận quan hệ khách hàng: Đây là bộ phận có chức năng chính là khởi tạo kinh doanh, củng cố và phát triển đội ngũ khách hàng với những công việc chính sau: (i) Xác định nhóm khách hàng mục tiêu (ii) Xác định giới hạn tín dụng đối với từng khách hàng (iii) Phát triển thị phần và bán sản phẩm, dịch vụ (iv) Quản lý và phát triển quan hệ với khách hàng (v) Hỗ trợ khách hàng trong quá trình giao dịch.

+ Bộ phận quản trị rủi ro: Đây là bộ phận có chức năng rà soát rủi ro và kiểm soát rủi ro ở mức thấp nhất: (i) Xây dựng chiến lược và chính sách QTRRTD;

(ii) Quản trị các danh mục tín dụng; (iii) Rà soát các đề xuất tín dụng đối với khách hàng trong đó chú trọng đến việc tuân thủ chính sách tín dụng, hồ sơ, thủ tục, phát hiện rủi ro; (iv) Giám sát quá trình phê duyệt tín dụng và rủi ro trong quá trình giao dịch với khách hàng.


+ Bộ phận quản lý nợ: Bộ phận này có chức năng duy trì số liệu trên hệ thống khớp đúng với số liệu trên hồ sơ đồng thời thực hiện hồ sơ tín dụng đầy đủ và an toàn: (i) Kiểm soát tuân thủ quy trình; (ii) Cập nhật thông tin trên hệ thống; (iv) Quản lý hồ sơ.

Ba là, các quyết định vay vượt hạn mức đều tập trung vào quyết định cho vay của Hội sở, điều này sẽ hạn chế rủi ro cho toàn hệ thống.

- Điều kiện áp dụng

+ Điều kiện về năng lực tài chính: Mô hình tập trung cần có tiềm lực tài chính mạnh để đầu tư vào hệ thống công nghệ và nhân lực có khả năng chuyên môn hóa trong công tác QTRRTD.

+ Điều kiện công nghệ và hệ thống thông tin quản lí: Mô hình tập trung cần có hệ thống dữ liệu thống nhất tập trung tại Hội sở.

+ Điều kiện nhân sự: Phương pháp này cần có một đội ngũ chuyên gia quản trị rủi ro có bề dày kinh nghiệm, được đào tạo bài bản, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài.

+ Điều kiện về hệ thống quản trị: Hệ thống quản trị và tổ chức đã được kiện toàn, việc phân cấp ủy quyền rõ ràng, tránh sự chồng chéo về chức năng.

+ Điều kiện thị trường: Mô hình tập trung được áp dụng trong thị trường tài chính phát triển, các hoạt động cạnh tranh lành mạnh,

Mô hình 4. Mô hình QTRRTD phân tán

Mô hình quản trị rủi ro phân tán là cách thức tổ chức hoạt động QTRRTD tản mát, ở nhiều bộ phận khác nhau, quyền quyết định và quản trị rủi ro khoản vay không tập trung ở Hội sở mà dàn đều ở cấp cơ sở.

Mô hình QTRRTD phân tán được hiểu là công tác thẩm định khách hàng, quản trị rủi ro của ngân hàng được thực hiện tại các chi nhánh riêng biệt. Hội sở chính chỉ có nhiệm vụ là chỉ đạo định hướng chung và thẩm định những khách hàng vượt quá khả năng cho phép của chi nhánh. Mô hình này chưa tách biệt được độc lập giữa 3 chức năng: Chức năng kinh doanh, chức năng quản trị rủi ro, chức năng tác nghiệp.

- Đặc điểm của mô hình phân tán

+ Một là, quyền lực không tập trung vào Hội sở, thông tin bị phân tán dẫn đến tình trạng Hội sở khó có khả năng xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược, các quyết định phòng ngừa RRTD của ngân hàng.

+ Hai là, chưa có sự tách bạch rõ giữa chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp trong hoạt động tín dụng. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay. Các phòng ban khác trong ngân hàng có các sản phẩm có tính chất tín dụng như L/C miễn kí quỹ, chiết khấu chứng từ... cũng tham gia hoạt động quản trị


rủi ro. Thành viên Ban lãnh đạo hoặc phó trưởng phòng tín dụng cũng đảm nhiệm duyệt cả 3 khâu của quá trình cho vay.

+ Ba là, hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro được thực hiện độc lập ở các chi nhánh. Mỗi giám đốc chi nhánh tự đưa ra phán quyết tín dụng và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

- Điều kiện áp dụng mô hình

+ Điều kiện về năng lực tài chính: Do mô hình phân tán mang tính tự phát nên không đòi hỏi nhiều về điều kiện tài chính.

+ Điều kiện về công nghệ và hệ thống thông tin quản lí: Mô hình phân tán áp dụng công nghệ đơn giản, quy trình khép kín, hồ sơ giấy tờ do một người quản lí, áp dụng trong môi trường ngân hàng quy mô nhỏ.

+ Điều kiện nhân sự: Hệ thống nhân viên có kiến thức bao quát hoạt động tín dụng và am hiểu tất cả các khâu của quy trình tín dụng, có thể đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ trong quy trình tín dụng.

+ Điều kiện về hệ thống quản trị: ngân hàng có hệ thống giản đơn, tách bạch giữa quyền lực Hội đồng quản trị và cấp điều hành, các phòng ban phân theo địa giới, không có sự chuyên môn hóa trong hoạt động quản trị rủi ro.

+ Điều kiện về thị trường: Mô hình phân tán hiện chỉ chủ yếu áp dụng tại thị trường tài chính chưa phát triển, các ngân hàng có hệ thống chi nhánh và tổ chức chưa hoàn thiện hoặc là áp dụng với các ngân hàng có quy mô nhỏ.

c. Theo tiêu chí kiểm soát RRTD:

Mô hình 5: Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn

- Khái niệm:

Cơ chế kiểm soát RRTD là: cơ chế theodõi, trách nhiệm kiểm tra của các chủ thể có quyền theo dõi đối với hoạt động tín dụng để đưa ra nhận định, phê phán đánh giá về RRTD của ngân hàng. Để thực hiện được chức năng giám sát hoạt động tín dụng, chủ thể có quyền giám sát phải sử dụng các công cụ nhất định, đó là các hoạt động thanh tra, kiểm soát, trong đó thanh tra: Là tác động của cơ quan giám sát lên đối tượng bị giám sát để xem xét, phát hiện, ngăn chặn các hành vi của đối tượng trái với các quy định cho phép; kiểm tra: là hoạt động thường xuyên của cơ quan giám sát đối với đối tượng bị giám sát nhằm đảm bảo cho các hoạt động của đối tượng được diễn ra theo đúng quy định.

Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn là mô hình quản trị rủi ro có cơ chế kiểm soát thông qua cơ quan kiểm soát nội bộ của ngân hàng và cơ quan thanh tra giám sát của ngân hàng trung ương. Cơ chế kiểm soát đơn không có sự tham gia của cơ quan kiểm toán bên ngoài và sự giám sát của thị trường.

+ Đặc điểm của mô hình quản trị rủi ro theo cơ chế kiểm soát đơn


Về cơ cấu tổ chức, cơ chế kiểm soát đơn thực hiện kiểm soát thông qua việc kiểm soát của thanh tra NHTW và bộ phận kiểm soát nội bộ của NHTM.

Thanh tra NH TW giám sát các ngân hàng qua hai hình thức chủ yếu là (i) Thanh tra tại chỗ (ii) giám sát từ xa. Bộ phận kiểm soát nội bộ của NHTM bao gồm kiểm tra, kiểm toán nội bộ và bộ phận quản lý RRTD của NHTM.

Về phương thức kiểm soát, mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn chủ yếu là giám sát qua hệ thống các văn bản, các báo cáo giám sát từ xa của cơ quan Thanh tra NHTW. Do chỉ có đơn phương là hệ thống Thanh tra viên nên các kết quả kiểm tra kiểm soát không được kiểm tra lại, không được giám sát qua một cơ quan thứ hai, nên tính chính xác không cao, hiệu quả cảnh báo rủi ro chưa cao.

- Ưu điểm, nhược điểm

Ưu điểm:

Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn chỉ dựa vào kiểm soát nội bộ bên trong NHTM và cơ quan thanh tra của NHTW nên chi phí về kiểm soát, kiểm tra ít tốn kém, gọn nhẹ.

Nhược điểm:

Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn có nhiều nhược điểm: Một là, việc kiểm soát chỉ giới hạn ở 2 đơn vị sẽ dẫn đến tình trạng “vừa đánh trống vừa thổi kèn”, cơ quan thanh tra vừa ban hành quy định an toàn vừa là cơ quan đi kiểm tra, do đó không mang tính khách quan. Hai là, hiệu quả giám sát kém do không có tính minh bạch, công khai, và thiếu vắng vai trò vô hình của thị trường.

- Điều kiện áp dụng:

+ Điều kiện về năng lực tài chính: Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn cần có tiềm lực tài chính để đầu tư kiện toàn bộ phận kiểm soát nội bộ của NHTM.

+ Điều kiện công nghệ và hệ thống thông tin quản trị: Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát đơn cần có hệ thống tin nội bộ tốt, xuyên suốt. Hệ thống báo cáo cho cơ quan giám sát NHTW phải được thực hiện định kì, chính xác, đều đặn.

+ Điều kiện nhân sự: Phương pháp này cần có một đội ngũ chuyên gia về quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ có bề dày kinh nghiệm, đội ngũ thanh tra viên trung thực và có trách nhiệm.

+ Điều kiện về hệ thống quản trị: Hệ thống quản trị và tổ chức đã được kiện toàn, việc phân cấp ủy quyền rõ ràng giữa bộ phận kiểm tra nội bộ và kiểm soát nội bộ của ngân hàng, tránh sự chồng chéo về chức năng.

+ Điều kiện thị trường: Mô hình này thường tồn tại trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển.

Mô hình 6: Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát kép


- Khái niệm:

Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát kép là mô hình quản trị rủi ro theo cơ chế: ngoài sự kiểm soát của các cơ quan kiểm soát bên trong ngân hàng, NHTW có sự giám sát của các cơ quan kiểm toán bên ngoài và sự kiểm soát của thị trường.

- Đặc điểm:

Về cơ cấu tổ chức: Mô hình “ thế kiềng ba chân” cho thấy ngoài sự giám sát của thanh tra NHNN, kiểm soát ngoài hệ thống còn có hệ thống giám sát vô hình dựa trên nguyên tắc thị trường. Do đó, mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát kép sẽ bao gồm:

Sự giám sát của thanh tra NHTW: Đây là cơ quan kiểm soát hoạt động RRTD đầu tiên. Thanh tra NHTW sẽ giám sát các NHTM dựa trên hoạt động thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro và giám sát từ xa. Hoạt động giám sát của thanh tra sẽ mang tính thị sát những nơi nào có dấu hiệu rủi ro và tiềm ẩn rủi ro, từ đó sẽ đưa ra những cảnh báo sớm cho ngân hàng hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Hiện nay các thanh tra viên sử dụng báo cáo giám sát CAMELS để tiến hành xếp hạng cho từng ngân hàng dựa trên sự đánh giá của 6 cấu phần:

C – Mức đảm bảo vốn,

A – Chất lượng tài sản có, M – Quản lý,

E – Thu nhập,

L – Mức độ thanh khoản, S – Độ nhạy cảm rủi ro.

Sự giám sát của các cơ quan bên ngoài như Ủy ban giám sát tài chính, Bộ tài chính, các cơ quan kiểm toán trực thuộc bộ tài chính, các cơ quan kiểm toán độc lập như KPMG, Ernst Young, các tổ chức xếp hạng tín dụng như S&P, Moody’s. Các cơ quan này sẽ đưa ra các báo cáo cảnh báo định kỳ để giám sát TCTD. Các báo cáo sẽ đưa ra quan điểm đánh giá độc lập về tình hình tài chính của ngân hàng và sẽ dùng cho cổ đông, người gửi tiền, người cho vay khác.

Cơ chế kiểm soát của thị trường: Sự kiểm soát của thị trường phản ánh thông qua sự giám sát của cổ đông đối với ngân hàng. Theo nguyên tắc cơ bản của OECD về quản trị doanh nghiệp, cổ đông có các quyền chính: (I) Đảm bảo các phương thức để đăng kí quyền sở hữu; (II) Mua, bán, chuyển nhượng cổ phần; (III) Tham dự và bỏ phiếu tại đại hội đồng cổ đông; (IV) Nhận được thông tin về doanh nghiệp đúng hạn; (V) Chia sẻ lợi nhuận. Như vậy, cổ đông sẽ tham gia sát ngân hàng thông qua việc nắm các thông tin về hoạt động của ngân hàng. Hoạt động giám sát của thị trường tuy không mang tính cưỡng chế nhưng góp phần làm tăng tính minh bạch của hoạt động ngân hàng.


Hệ thống kiểm tra kiểm toán nội bộ của Ngân hàng: Đây chính là cơ quan duy nhất của ngân hàng, là bộ phận trợ giúp đắc lực của Hội đồng quản trị, liên tục theo dõi các hoạt động tín dụng của Ngân hàng mình, kiểm tra quy trình hoạt động tín dụng và đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro.

Về phương thức kiểm soát: Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát kép sẽ kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Thanh tra NHTW, sự giám sát của các cơ quan bên ngoài, cơ chế kiểm soát trực tiếp của bộ phận kiểm soát nội bộ của ngân hàng, và cơ chế kiểm soát trực tiếp của thị trường.


NHTW

Kiểm toán độc lập

Thị trường

Các cơ quan giám sát bên ngoài

Cổ đông

NHTM

Kiểm soát nội bộ


Sơ đồ 1.2: Mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát kép

- Ưu điểm, nhược điểm

Ưu điểm: Một là, do tính kiểm tra chéo nhau, mô hình QTRRTD theo cơ chế kiểm soát kép đảm bảo rủi ro được rà sóat nhiều lần, và đây là cơ sở để các ngân hàng hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Hai là, mô hình có sự kiểm soát của thị trường, đây là một thành tố kiểm soát rất tự nhiên, phản ánh tính chân thực, rõ ràng, minh bạch trong thông tin.

Nhược điểm: Nếu mô hình được phát triển ở thị trường tài chính phát triển thì rất thuận lợi, phản ánh hiệu quả của việc kiểm soát cao. Nhưng đối với các nước tuy đã có mặt các cơ quan kiểm soát bên ngoài nhưng chỉ mang tính hình thức, thì hoạt động kiểm soát chồng chéo dễ gây lãng phí, mất thời gian và công sức.

-Điều kiện áp dụng

+ Điều kiện về năng lực tài chính: Mô hình cần có tiềm lực tài chính mạnh để đầu tư kiện toàn bộ phận kiểm soát nội bộ của NHTM, đồng thời thuê kiểm toán bên ngoài và niêm yết cổ phiếu công khai trên thị trường.


+ Điều kiện công nghệ và hệ thống thông tin quản lý: Mô hình cần có hệ thống thông tin nội bộ cũng như hệ thống báo cáo cho cơ quan giám sát NHTW chính xác, kịp thời.

+ Điều kiện nhân sự: Phương pháp này cần có một đội ngũ chuyên gia về quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ có bề dày kinh nghiệm. Thêm vào đó, cần tham khảo và tìm sự hỗ trợ từ đội ngũ chuyên gia kiểm toán và tư vấn bên ngoài.

+ Điều kiện về hệ thống quản trị: Hệ thống quản trị và tổ chức đã được kiện toàn, việc phân cấp ủy quyền rõ ràng giữa bộ phận kiểm tra nội bộ và kiểm soát nội bộ của ngân hàng, tránh sự chồng chéo về chức năng.

+ Điều kiện thị trường: Mô hình này thường tồn tại trong điều kiện thị trường tài chính phát triển mạnh, các chủ thể tham gia thị trường đều tham gia thị trường một cách bình đẳng.

+ Điều kiện pháp lí: mô hình được áp dụng trong một môi trường pháp lý rõ ràng minh bạch đặc biệt là có hành lang pháp lý rõ ràng về vấn đề kiểm soát rủi ro, về vấn đề minh bạch hóa thông tin.

B. Mô hình QTRRTD dưới góc độ nghiên cứu tổng thể

Mô hình 7: Mô hình QTRRTD dưới góc độ nghiên cứu tổng thể

Mỗi một ngân hàng khi xác định mô hình quản trịrủi ro tổng thể sẽ phải lựa chọn kết hợp 3 cách thức lại để tạo nên một mô hình cho riêng mình sao cho đạt hiệu quả tốt nhất. Có thể tổng kết dưới đây một số dạng mô hình QTRR tổng thể mà ngân hàng đang áp dụng và lựa chọn:

Bảng 1.2: Bảng phân tích các dạng mô hình QTRR tín dụng dưới góc độ nghiên cứu tổng thể

Dạng mô hình

Đặc điểm mô hình

Điều kiện áp dụng

1. Dạng kết hợp 1

Mô hình là sự kết hợp giữa:

+ Mô hình đo lường định lượng.

+ Mô hình tổ chức quản trị rủi ro tập trung

+ Mô hình kiểm soát rủi ro kép

- Năng lực tài chính mạnh

- Công nghệ và hệ thống thông tin hiện đại, tập trung.

- Nhân sự có trình độ cao

- Hệ thống quản trị hiện đại có sự phân quyền rõ ràng

- Thị trường tài chính phát triển

2. Dạng kết hợp 2

Mô hình là sự kết hợp giữa:

+Mô hình đo lường định tính

+Mô hình tổ chức quản trị rủi ro phân tán

+Mô hình kiểm soát rủi ro đơn

- Năng lực tài chính yếu kém

- Công nghệ và hệ thống thông tin không tập trung, lạc hậu

- Nhân sự trình độ kém, chuyên môn thấp

- Hệ thống quản trị hiện đại có sự phân quyền rõ ràng, phân tán

- Thị trường tài chính đang phát triển


3. Dạng

Mô hình là sự kết hợp giữa:

- Năng lực tài chính đang trong quá trình củng cố

chuyển đổi

+ Mô hình do lường định tính hoặc định

- Công nghệ và hệ thống thông tin đang trong quá trình


lượng hoặc cả hai.

chuyển đổi nâng cấp


+ Mộ hình tổ chức quản trị rủi ro hoặc

- Nhân sự đang được quan tâm và đào tạo


phân tán hoặc tập trung hoặc cả hai

- Hệ thống quản trị đang có thay đổi theo hướng tập trung


+ Mô hình kiểm soát rủi ro đơn hoặc

- Thị trường tài chính đang trong giai đoạn phát triển và


kép

chuyển đổi

Nguồn: Tổng hợp

Thứ nhất, mô hình QTRRTD dạng kết hợp 1: là mô hình QTRRTD được kết hợp giữa cách quản trị rủi ro tập trung trên nền tảng sửdụng phương pháp đo lường rủi ro định lượng và sử dụng hình thức kiểm soát kép.

Mô hình QTRRTD dạng kết hợp 1 là mô hình ưu việt nhất bởi ngân hàng sẽ thực hiện việc QTRRTD tập trung tại Hội sở chính. Trên cơ sở đó, Hội sở chính có nhiệm vụ quản trị, kiểm tra giám sát HĐKD của từng hệ thống, chi nhánh cho đến từng điểm giao dịch trong hệ thống trên cơ sở thông tin dữ liệu đầy đủ, chính xác được đo lường theo phương pháp định lượng và các công cụ hỗ trợ kinh doanh dựa theo chuẩn mực của một ngân hàng hiện đại. Mô hình QTRRTD dạng kết hợp 1 dựa trên nền tảng chính là phương pháp định lượng nhưng điều đó không có nghĩa là không sử dụng mô hình định tính, mà nếu sử dụng bổ sung mô hình định tính trong một số trường hợp có thể làm cho việc đo lường được chính xác hơn do có ý kiến của chuyên gia, như thế đánh giá về rủi ro tốt hơn và hiệu quả hơn. Hơn thế nữa, sử dụng hình thức kiểm soát kép sẽ kết hợp được việc kiểm tra quy trình, tính tuân thủ và sự giám sát của thị trường qua sự tham gia giám sát của cổ đông.Như vậy, hoạt động quản trị tín dụng sẽ tạo thành một mô hình tổng thể, khép kín, đạt hiệu quả.

Mô hình QTRRTD được sử dụng tốt ở các nước phát triển khi mà các điều kiện bên ngoài và bên trong đảm bảo toàn diện. Trước hết, mô hình này cần phát triển trên nền tảng một thị trường tài chính phát trong đó chế độ thông tin công khai minh bạch, cổ đông có thể bình đẳng tham gia giám sát ngân hàng. Mô hình QTRRTD dạng kết hợp 1 cần được áp dụng trên nền tảng công nghệ hiện đại, hệ thống thông tin tập trung kết nối từ HSC và chi nhánh, hệ thống quản trị cũng tân tiến thể hiện sự phân quyền rõ ràng giữa Hội đồng quản trị và Ban điều hành. Các ngân hàng áp dụng mô hình này phải có năng lực tài chính mạnh để có cơ sở đầu tư vào công nghệ và nguồn lực bởi lẽ trong mô hình này công nghệ và nguồn lực là 2 yếu tố then chốt. Lực lượng nhân sự tham gia trong hoạt động quản trị rủi ro, về Basel I, Basel II; (ii) am hiểu về công nghệ và kỹ thuật đo lường; (iii) am hiểu về luật pháp về chế độ công bố thông tin; (iv) riêng cán bộ kiểm tra nội bộ am hiểu về kế toán và quản trị rủi ro.


Thứ hai, mô hình QTRRTD dạng kết hợp 2: Là mô hình kết hợp giữa cách quản trị rủi ro phân tán, sử dụng chủ yếu phương pháp đo lường định tính và hình thức kiểm soát đơn.

Nếu như mô hình dạng kết hợp 1 là mô hình ưu việt nhất thì mô hình dạng kết hợp 2 mô hình ở mức sơ khai nhất khi các ngân hàng manh nha thử nghiệm hoạt động quản trị rủi ro.Trong thời kì đầu tiên này, các ngân hàng chỉ có thể đo lường rủi ro theo phương pháp đo lường định tính dựa trên hệ thống chuyên gia và phân tích cổ điển. Việc quản trị rủi ro cũng hoạt động đơn lẻ tại từng bộ phận và thông tin bị chia sẻ theo từng bộ phận, các phần mềm không có khả năng tích hợp thông tin.

Việc kiểm soát RRTD cũng chỉ diễn ra đơn thuần giữa cơ quan Thanh tra của NHNN và bộ phận kiểm tra kiểm soát của NHTM, do đó tính kiểm tra chéo không cao, hiệu quả quản trị rủi ro thấp.

Mô hình dạng kết hợp 2 thường diễn ra tại các nước đang phát triển khi mà các điều kiện bên ngoài và bên trong chưa hội tụ đủ.Điều kiện bên ngoài ở đây chính là thị trường tài chính chưa phát triển mạnh, chưa có chế độ công bố thông tin rõ ràng, các điều kiện vĩ mô ảnh hưởng xấu đến môi trường ngân hàng. Điều kiện ở bên trong chính là sự hạn chế về công nghệ, nhân sự, hệ thống quản trị, năng lực tài chính khiến cho việc áp dụng mô hình chỉ dừng lại một cách sơ khai nhất.

Thứ ba, mô hình QTRRTD dạng chuyển đổi là mô hình kết hợp giữa cách quản trị rủi ro phân tán hoặc tập trung, hoặc cả hai trên nền tảng phương pháp đo lường định tính hoặc định lượng hoặc cả hai; sử dụng hình thức kiểm soát đơn hoặc kép hoặc cả hai. Mô hình QTRRTD dạng chuyển đổi có thể ở các dạng chủ yếu sau: đo lường định tính và định lượng, quản trị rủi ro phân tán, kiểm soát đơn, hoặc là đo lường định lượng, quản trị rủi ro tập trung, kiểm soát đơn, hoặc là đo lường định lượng, quản trị rủi ro tập trung và phân tán, kiểm soát đơn và kép…

Mô hình dạng chuyển đổi thường diễn ra tại các nước đang phát triển khi mà các ngân hàng đang có nhiều nỗ lực đổi mới trong hoạt động QTRRTD.

Tuy nhiên, do hạn chế ở một số yếu tố trong các điều kiện như các yếu tố công nghệ, nhân sự, hệ thống quản trị, nên không thể sử dụng hoàn toàn mô hình dạng kết hợp 1. Tuy nhiên, các ngân hàng sẽ nỗ lực từng bước hoàn thiện các điều kiện để tiến tới mô hình dạng kết hợp 1

1.2.3.3 Tổ chức thực hiện quản trị rủi ro tín dụng

a. Nhận diện RRTD

Khâu đầu tiên trong QTRRTD đó là nhận biết rủi ro, trên cơ sở nhận biết rủi ro các nhà quản trị sẽ tiếp tục thực hiện các khâu tiếp theo, đây là một trong các nội dung quan trọng nhất trong công tác QTRRTD. Để nhận biết rủi ro cần xem xét đến các dấu hiệu của RRTD, trên cơ sở đó để phân tích rủi ro, đánh giá và nhận biết rõ

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí