Hiệu Quả Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại



1.1.3.3. Các hoạt động khác:

Trung gian thanh toán: NHTM là hệ thống trung gian tài chính cơ bản trong nền kinh tế, chủ yếu là hoạt động trong nghiệp vụ trung gian trong thanh toán. Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức đứng giữa bên phải thanh toán và bên hưởng thụ giúp cho quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, các mối quan hệ không chỉ diễn ra trong nước mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Nếu không có một hệ thống thanh toán nhanh chóng thuận tiện thì việc thực hiện các giao dịch, quan hệ kinh tế sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Do vậy việc ngân hàng đứng ra đảm nhận chức năng này có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Việc ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản không chỉ tạo cho ngân hàng những nguồn vốn mới mà còn mang lại cho ngân hàng một nguồn thu nhập thông qua thu phí đối với các dịch vụ thanh toán.

Cung cấp dịch vụ: cung cấp dịch vụ thanh toán nhanh chóng, tiện lợi, các dịch vụ tiện ích tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng điện tử, hiện đại như: internet banking, ngân hàng tại nhà (home banking), mobile banking (telephone banking), các dịch vụ thẻ nội địa, thẻ quốc tế, dịch vụ thanh toán tự động, …và nhiều dịch vụ tiện ích khác.

1.2. Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng Thương mại

1.2.1. Vốn huy động trong Ngân hàng Thương Mại‌

1.2.1.1. Vốn huy động từ nền kinh tế:

Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động nói riêng và trong nguồn vốn kinh doanh của các NHTM nói chung. Các NHTM huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cơ quan, dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau. Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn) là loại tiền được thể hiện trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện chi trả về mua hàng hoá và thực hiện các dịch vụ khác trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản tiền gửi thanh toán séc hay tài khoản vãng lai để quản lý tài sản của khách hàng.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.


Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý là khoản tạm thời nhàn rỗi ở khách hàng. Họ gửi vào Ngân hàng không mang tính chất của tài khoản tiền gửi thanh toán, chỉ nhằm mục đích an toàn tài sản cho khách hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận nên để có lợi nhuận NHTM phải kinh doanh và phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi đi vay để cho vay thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử dụng vốn đó cho một chủ thể thiếu vốn khác trong nền kinh tế.

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam - 3

Trước hết để có vốn hoạt động thì NHTM phải huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi: Tiền gửi có thể phát hành séc, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn. Sau đó họ cho vay thế chấp và để mua các trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương.

Huy động vốn và đầu tư vốn là có quan hệ không thể tách rời, để có nguồn vốn lớn thì các NHTM phải tìm nhiều biện pháp hữu hiệu thu nạp một cách nhanh chóng. Sau đó dùng số vốn đó cho vay mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, đầu tư vốn có hiệu quả hay không sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM. Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể huy động được thông qua các hình thức : hát hành kỳ phiếu, trái phiếu, các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn. Các hình thức trên, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi. Nguồn vốn này chỉ phát sinh khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Qua đó ta thấy nguồn vốn huy động là công cụ chính, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Số vốn mà các NHTM huy động là tài sản của các chủ sở hữu Ngân hàng được quyền sử dụng nhưng phải có trách nhiệm hoàn trả cho họ đúng thời hạn cả vốn và lãi. Các NHTM chỉ được sử dụng nguồn vốn này vào các nghiệp vụ tín dụng như cho vay, đầu tư, chiết khấu... mà không được sử dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản cố định cho Ngân hàng cũng như các mục đích khác ngoài kinh doanh.

1.2.1.2. Vốn vay:

Bên cạnh việc huy động vốn từ nhận tiền gửi, các ngân hàng còn đi vay để tăng lượng vốn nắm giữ nhằm đảm bảo và phát triển hoạt động kinh doanh của



mình. Vốn vay của ngân hàng có thể có được từ nhiều nguồn khác nhau như: vay từ Ngân hàng nhà nước, vay từ các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường vốn…Nguồn vốn vay chỉ chiếm tỷ trọng vừa phải trong kết cấu nguồn song nó rất cần thiết và quan trọng đối với các ngân hàng.

Tiền vay Ngân hàng Trung ương: Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các ngân hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau cùng. Thông thường tất các NHTM và một số tổ chức tài chính khác trong nước được NHTWcho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tại ngân hàng NHTW trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. Đối với các NHTM thì vay mượn tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi và hấp dẫn vào lúc nó hạ lãi suất tái chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích đầu tư. Nhưng trường hợp không may diễn ra là khi các ngân hàng đến vay vào lúc NHTW không muốn khuyến khích sự bành trướng của tín dụng hay đang muốn thắt chặt cung ứng tiền tệ chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đẩy lên cao và với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTW thì các ngân hàng chỉ miễn cưỡng vay trong những tình huống ngặt nghèo và tìm cách trả nợ rất nhanh. Những khi ấy, các khoản vay từ NHTW chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tài sản nợ của các ngân hàng. Dù ít hay nhiều, thường xuyên hay thình thoảng thì vay NHTW vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài sản nợ. Ngân hàng Trung ương cấp tín dụng cho các NHTM qua 2 hình thức:

Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn: Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu sẽ trở thành tài sản cảu họ. Khi cần tiền họ mang chúng lên NHTW để tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ tăng lên. NHTW kiểm soát việc vay mượn này một cách chặt chẽ. Thông thường NHTWchỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng (có thời hạn đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHTW trong từng thời kì.

Thế chấp hay ứng trước bảo đảm hay không có bảo đảm: Đây là hình thức cho vay thời hạn ngắn, chủ nợ không bán các phiếu nợ cho ngân hàng mà chỉ đem



gửi các phiếu đó làm vật bảo đảm cho việc vay tiền. Ở Việt Nam hiện nay, có các loại cho vay của NHNN đối với các NHTM như sau:

Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn : là hình thức tài trợ vốn theo kế hoạch, chỉ phân phối đối với các NHTM quốc doanh.

Chiết khấu và tái chiết khấu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng đã cho khách hàng vay nhưng chưa đáo hạn và các thương phiếu.

Cho vay bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.

Tiền vay các tổ chức tín dụng khác: Khi vay tiền từ NHTW để đáp ứng thiếu hụt dự trữ hay chi trả cấp bách quá khó khăn (lãi suất chiết khấu cao, điều kiện vay mượn chặt chẽ..) các NHTM thường vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay mượn này rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí (hoặc NHTW). Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường, các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Việc vay mượn giữa các ngân hàng là hoạt động thường xuyên và là một kênh huy động vốn tốt cho các ngân hàng trong những trường hợp khẩn cấp.

Vay trên thị trường vốn: Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường xuyên (đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường chủ động đi vay trên thị trường vốn. Cũng giống như các doanh nghiệp, Ngân hàng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường. Thông thường đây là các khoản vay không có đảm bảo, nên những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách đó mà phải thông qua ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Có thể nói thị trường tài chính với vai trò trung gian điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các ngân hàng. Thị trường



tài chính càng phát triển thì khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của các ngân hàng càng tăng.

1.2.1.3. Vốn huy động khác:

Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là nguồn mà ngân hàng tạm thời chiếm dụng, không có ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng …

1.2.2. Hiệu quả huy động vốn và các chỉ tiêu đánh giá

1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn:

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy động vốn không chỉ đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng mà còn phản ánh khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường của ngân hàng.

Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh giữa kết quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/ chi phí hoặc chi phí/ kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông tin có ý nghĩa khác nhau. Khái niệm hiệu quả như trên cho thấy rằng chỉ khi nào đạt được kết quả cao nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất mới được coi là có hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định kết quả nào là cao nhất với chi phí thấp nhất là rất khó.

Như vậy, hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu sử dụng vốn với chi phí hợp lý.

1.2.2.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn:

Ngân hàng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi cách thức huy động vốn đem lại cho NHTM một nguồn vốn có tính chất khác nhau, với chi phí khác nhau. Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của một NHTM ta



cần dựa vào các chỉ tiêu cụ thể. Mỗi chỉ tiêu nêu lên một mặt của hoạt động huy động vốn của NHTM. Sau đây là một số chỉ tiêu:

Tính ổn định của nguồn vốn

Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố như đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp cần phải có sự ổn định, tức là không có sự thay đổi đột ngột trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng. Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể dự tính được trước thời gian sử dụng như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm ...

Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng cũng như nhu cầu của các hoạt động khác. Mặt khác vốn huy động đó cung cần phải có sự ổn định về thời gian. Chẳng hạn như nếu ngân hàng huy động được một nguồn vốn lớn đáp ứng được yêu cầu tín dụng nhưng lại không đánh giá được khả năng ổn định của nguồn vốn đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, tạo cho ngân hàng những rủi ro khó lường trước được. Ngược lại, nếu ngân hàng chỉ huy động được nguồn vốn nhỏ nhưng ổn định về thời gian sẽ làm cho việc đầu tư của ngân hàng từ nguồn vốn đó đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.

Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm vốn huy động. Nếu vốn huy động tăng đều qua các năm, có tốc độ gia tăng ổn định, đều đặn thì vốn đó được coi là có hiệu quả trong việc huy động.

Chi phí huy động vốn

Chi phí vốn huy động / Quy mô vốn huy động: Vốn của NHTM được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng và đặc biệt là được dùng để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.

Nợ chiếm phần lớn trong nguồn vốn của NHTM, nó là nguồn vốn hoạt động chính đối với mỗi ngân hàng. Cho nên hầu hết các khoản nợ của NHTM đều liên quan đến chi phí huy động vốn.



Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi trả lãi. Trong tổng số chi phí vốn huy động thì chi phí trả lãi là chủ yếu. Ngoài ra còn có các chi phí khác như: Chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán, chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo để thu hút khách hàng gửi tiền, chi phí để mở các quỹ tiết kiệm, chi phí mua máy móc thiết bị... và các chi phí khác liên quan đến hoạt động huy động vốn.

Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí trả lãi dựa trên lãi suất danh nghĩa, lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng, chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo,... Tuy nhiên, lãi suất thực tế của từng nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là cao hơn bởi vì ngoài chi phí trả lãi, ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nữa, chi phí phi trả lãi. Vì vậy chỉ tiêu chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được chia nhỏ ra làm hai chỉ tiêu khác. Đó là:

Chi phí trả lãi / tổng vốn huy động: cho thấy để huy động được một đồng vốn thì ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách hàng.

Chi phí phi trả lãi / tổng vốn huy động: cho thấy một đồng vốn huy động được ngân hàng bỏ ra chi phí là bao nhiêu cho việc quản lý, cất giữ, bảo quản, ...

Tóm lại chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được dùng để đánh giá xem một đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí. Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn phải hợp lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này và có lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn càng có hiệu quả. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng để giảm chi phí huy động vốn thì cần phải giảm lãi suất huy động và có các chi phí quản lý, bảo quản, dự trữ vốn huy động một cách tối ưu nhất. Việc đưa ra một lãi suất huy động hợp lý là rất quan trọng, lãi suất không quá cao - đảm bảo lợi ích ngân hàng, cũng không quá thấp – thu hút được khách hàng gửi



tiền. Đồng thời giảm các chi phí phi trả lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả của hoạt động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả hơn.

Chênh lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng: Mối liên hệ nguồn vốn và tài sản là mối liên liên hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhên, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng, tức là khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu về sử dụng vốn hay khả năng sinh lời từ dồng vốn huy động được thì các ngân hàng cũng thường sử dụng chỉ tiêu chêch lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như hiệu quả hoạt động huy động vốn. Chỉ tiêu này được tính như sau:


Chênh lệch thu chi lãi

Thu lãi – Chi lãi

=

Chi phí trả lãi

Chi phí trả lãi


Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho thấy ngân hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động của mình trong việc tối thiểu hóa chi phí huy động cho đồng vốn đó. Chỉ tiêu này cao do chênh lệch thu chi lãi trước thu, chi khác cao và chi phí trả lãi nhỏ. Chỉ tiêu chênh lệch thu, chi lãi/ chi phí trả lãi cao cũng có thể do chí phí tăng và thu nhập trước thu nhập khác và chi khác giảm, tuy nhiên tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ giảm của thu nhập đó.

Khả năng sử dụng tối da nguồn vốn huy động

Huy động vốn và sử dụng vốn đó là hai quá trình hoạt động của Ngân hàng. Công tác cân đối vốn của Ngân hàng là một chiến lược huy động vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài hoà giữa huy động vốn và sử dụng vốn chính là công tác cân đối vốn của Ngân hàng. Công tác cân đối vốn là hết sức quan trọng và cần thiết đối với bất kỳ ngân hàng nào. Đó là một biện pháp nghiệp vụ, là một công cụ quản lý của nhà lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối đa lập, các cán bộ ngân hàng xem xét, phân tích

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 22/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí