Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Cho Vay Đối Với Người Nghèo


quá hạn có thể phản ánh rủi ro không chính xác. Do đó, các ngân hàng phải thận trọng khi xem xét chất lượng tín dụng bằng việc phân tích kỳ hạn như thế nào thì coi là quá hạn.

- Tỷ lệ nợ xấu



𝑇𝑙𝑛𝑥𝑢 =

𝑆𝑑ư 𝑛𝑥𝑢

𝑇𝑛𝑔 𝑑ư 𝑛


× 100%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Trong các khoản nợ quá hạn thì có một phần là các khoản nợ “có vấn đề” hay các khoản nợ xấu, đây là các khoản nợ có nhiều khả năng dẫn đến việc mất toàn bộ vốn mà ngân hàng đó cho vay cho nên các ngân hàng cần quan tâm tới chỉ số nay.

Chỉ tiêu này phản ánh trong tổng dư nợ thì có bao nhiêu phần trăm có thể bị mất không.

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo tại chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bắc Ninh - 5

Theo quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam có quy định là: Nợ xấu (NPL)là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5: Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này; các khoản nợ được miễn giảm hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 Điều nay.

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 Điều này.


Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đó quá hạn; các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Nợ xấu có độ rủi ro rất cao, khả năng thu hồi vốn là tương đối khó, khoản vốn của ngân hàng lúc này không còn là rủi ro nữa, mà đó gây thiệt hại cho ngân hàng. Đây là kết quả trực tiếp biểu hiện chất lượng của khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Một ngân hàng có tỷ lệ xấu cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất thấp và lúc này cần phải xem xét lại toàn bộ hoạt động tín dụng của mình nếu không hậu quả khó lường trước được.

Tóm lại, Ngân hàng hoạt động có chất lượng tốt thì tổng dư nợ phải cao, kết cấu dư nợ phù hợp, nợ quá hạn thấp và tránh trường hợp bị nợ xấu

* Tình hình sử dụng vốn tín dụng:

- Vòng quay vốn tín dụng



𝑉ò𝑛𝑔 𝑞𝑢𝑎𝑛ℎ 𝑣𝑛 𝑡í𝑛 𝑑𝑛𝑔 =

𝐷𝑜𝑎𝑛ℎ 𝑠𝑡ℎ𝑢 𝑛

𝐷ư 𝑛𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛

Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vay ngân hàng đó luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất là lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đó đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để


tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, hệ số này càng tăng thì phản ánh tình hình tổ chức vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.

- Hiệu suất sử dụng vốn



𝐻𝑖𝑢 𝑠𝑢𝑡 𝑡í𝑛 𝑑𝑛𝑔 𝑣𝑛 𝑣𝑎𝑦 =

𝑇𝑛𝑔 𝑑ư 𝑛𝑐ℎ𝑜 𝑣𝑎𝑦

𝑇𝑛𝑔 𝑛𝑔𝑢𝑛 𝑣𝑛 ℎ𝑢𝑦 độ𝑛𝑔


× 100%

Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay của các ngân hàng, nó cho ta biết trong một đồng vốn huy động được thì bao nhiêu đồng được sử dụng trong cho vay. Hiệu suất sử dụng càng cao thì hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả và ngược lại.

* Hiệu quả hoạt động tín dụng:

Không thể nói một khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem lại khoản thu nhập cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do tín dụng mang lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà cũng có lợi, đảm bảo được độ an toàn của đồng vốn vay. Mặt khác, đặc biệt là với đội tượng vay vốn là người nghèo, hiệu quả hoạt động tín dụng được gọi là cao khi người nghèo nhờ các khoản vốn vay từ ngân hàng có thể phát triển kinh tế, thoát nghèo và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.

Hiệu quả hoạt động cho vay thể hiện ở khoản lợi nhuận từ hoạt động cho vay. Chỉ tiêu đánh giá cụ thể như sau:

𝐿𝑖 𝑛ℎ𝑢𝑛 𝑡ℎ𝑜𝑡 độ𝑛𝑔 𝑡í𝑛 𝑑𝑛𝑔 =

𝐿𝑖 𝑛ℎ𝑢𝑛 ℎ𝑜𝑡 độ𝑛𝑔 𝑡í𝑛 𝑑𝑛𝑔

𝑇𝑛𝑔 𝑙𝑖 𝑛ℎ𝑢𝑛



𝐻𝑖𝑢 𝑞𝑢ℎ𝑜𝑡 độ𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑜 𝑣𝑎𝑦 𝑛𝑔ườ𝑖 𝑛𝑔ℎè𝑜 =

𝑆𝑛𝑔ườ𝑖 𝑡ℎ𝑜á𝑡 𝑛𝑔ℎè𝑜

𝑆𝑛𝑔ườ𝑖 𝑣𝑎𝑦


Đối với góc độ ngân hàng, nếu ngân hàng chỉ chú trọng việc giảm và

duy trỡ một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp đó cũng không có ý nghĩa. Mặt khác, đối


với vai trò là ngân hàng chính sách, chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao việc xoá đói, giảm nghèo.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với người nghèo

Hoạt động cho vay đối với người nghèo của ngân hàng là hoạt động đem lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội lớn nhất và cũng là hoạt động chủ yếu của NHCSXH. Chất lượng hoạt động cho vay bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng và nhân tố khách quan từ bên ngoài tác động vào.

1.3.1. Yếu tố chủ quan

Thứ nhất, chính sách cho vay:

Chính sách cho vay là hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay hạn chế cho vay để đảm bảo mục tiêu hoạt động của một ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chính sách cho vay dưới những hình thức khác nhau. Thông thường chính sách cho vay có thể là chỉ thị bằng lời của ban lãnh đạo ngân hàng hoặc là một tập hợp các hành vi, các thông lệ và những tập quán…

Đối với NHCSXH chính sách cho vay được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản. Văn bản này bao gồm các tiêu chuẩn, các hướng dẫn và các giới hạn để chỉ đạo quy trình ra quyết định cho vay. Khi xây dựng chính sách cho vay, các nhà quản lý đã chú ý sự phù hợp giữa nội dung của chính sách với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ. Một chính sách cho vay tốt sẽ giúp ngân hàng có cơ sở vững chắc để đảm bảo những khoản cho vay an toàn, hiệu quả.

Thứ hai, quy trình cho vay:

Quy trình cho vay bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cấp vốn, thu nợ. Nó được bắt đầu từ khi điều tra, thiết lập hồ sơ, xét duyệt cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thu lãi cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng cho vay tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định trong quy trình cho vay.


Trong quy trình cho vay bước điều tra cho vay, thiết lập hồ sơ và xét duyệt cho vay rất quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Cho vay đối với người nghèo thực chất công tác điều tra là xem xét, kết luận chính xác về đối tượng vay vốn, mục đích sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xảy ra giúp cho ngân hàng lựa chọn được phương án tốt nhất. Bước kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản cho vay đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra.

Thu nợ, thu lãi là khâu có tính quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Sự nhạy bén của ngân hàng thông qua việc thu lãi, thu nợ để phát hiện kịp thời những hiện tượng bất thường đối với mỗi món vay, đưa ra biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó có tác động tích cực tới chất lượng cho vay.

Thứ ba, kiểm tra, kiểm soát nội bộ:

Kiểm tra kiểm soát nội bộ là kiểm tra việc thực hiện chính sách cho vay, quy trình cho vay và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay. Kiểm tra định kì nhằm phát hiện ra các trường hợp vi phạm để xử lý kịp thời. Chất lượng cho vay đối với người nghèo tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện các sai sót phát sinh và hiệu quả các biện pháp khắc phục.

Thứ tư, khả năng nguồn vốn:

Trong việc nâng cao chất lượng cho vay, nguồn vốn đóng vai trò quan trọng. Ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ tạo điều kiện tăng khả năng cho vay. Mặt khác, kì hạn của các khoản huy động vốn cũng ảnh hưởng rất lớn tới kỳ hạn, doanh số từ các khoản cho vay.

Thứ năm, công tác tổ chức của ngân hàng:

Công tác tổ chức là công tác mà ngân hàng bố trí các hoạt động của mình thông qua việc xây dựng lên các phòng ban chuyên trách. Các phòng


ban này có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình ra quyết định cấp tín dụng. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng cần phải sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, không chồng chéo, các phòng ban có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Từ đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng giúp ngân hàng theo dõi, quản lý sát sao các khoản cho vay, đảm bảo tín dụng ngân hàng lành mạnh, cho vay đúng đối tượng, quản lý có hiệu quả và phát hiện xử lý kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề, từ đó nâng cao chất lượng cho vay.

Thứ sáu, trình độ và đạo đức cán bộ tín dụng:

Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động cấp tín dụng, là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay. Thực tế đã cho thấy phẩm chất và trình độ của cán bộ tín dụng là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng.

Cán bộ tín dụng có đạo đức nghề nghiệp sẽ có ý thức hoàn thành tốt công việc chuyên môn của mình, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật, hết lòng tận tụy với công việc. Cán bộ tín dụng giỏi về kỹ năng thạo về nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm sẽ đánh giá được chính xác đối tượng vay vốn… Từ đó phân tích được khả năng và năng lực thực sự của khách hàng để đưa ra quyết định có cho vay hay không. Bên cạnh sự hiểu biết về chuyên môn, tinh thần nhiệt huyết với công việc, người cán bộ tín dụng còn cần sự hiểu biết về pháp luật, sự hiểu biết về môi trường kinh tế - xã hội… để có thể hướng dẫn cho khách hàng một cách chu đáo. Như vậy, một cán bộ tín dụng giỏi và có phẩm chất tốt sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa, hạn chế những sai phạm, rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện nhiệm vụ của mình.


1.3.2. Yếu tố khách quan

Ngoài các yếu tố của NHCSXH thì có rất nhiều nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay người nghèo tại ngân hàng.

Một là, nhân tố người nghèo:

Người nghèo là người trực tiếp sử dụng vốn của ngân hàng để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, việc ngân hàng có thu hồi được khoản cho vay hay không phụ thuộc vào hộ vay. Nhân tố người nghèo ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Khi đến ngân hàng xin vay vốn người nghèo phải đáp ứng các điều kiện cho vay của ngân hàng ở những mặt sau: Người nghèo phải đúng đối tượng vay vốn đó là hộ nghèo có tên trong danh sách hộ nghèo được thông báo tại địa phương theo từng thời kỳ. Ngân hàng phải xem xét mục đích sử dụng vốn của hộ nghèo, mục đích sử dụng không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của cho vay.

Hai là, Hội - Đoàn thể:

NHCSXH ủy thác bán phần cho các Hội - Đoàn thể thực hiện một số công đoạn trong quy trình cho vay hộ nghèo. Chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động cho vay hộ nghèo của NHCSXH.

Ba là, môi trường pháp lý.

Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn ổn định và phát triển thì cũng cần có một hành lang pháp lý thích hợp, hành lang pháp lý chính là bàn tay hữu hình của Nhà nước tác động vào nền kinh tế nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, chế độ của mình. Hoạt động NHCSXH là một trong những hoạt động kinh tế trong tổng thể nền kinh tế vì vậy nó cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Pháp luật nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Nói đến môi trường pháp lý là nói đến tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.


Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể hiện tín dụng của ngành đúng với Luật Ngân hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều quan trọng để nâng cao chất lượng cho vay.

Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật, tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Trong điều kiện như vậy việc vận dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động NHCSXH là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay.

Bốn là, đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương:

Đặc trưng cơ bản của hệ thống cho vay là do tính chất và cơ cấu quản lý kinh tế quyết định. Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín dụng. Do đó phạm vi và mức độ cho vay đối với người nghèo phải phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương.

Năm là, môi trường kinh tế:

Nền kinh tế hưng thịnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo sản suất, kinh doanh đạt lợi nhuận cao. Ngược lại nền kinh tế suy thoái, sản xuất kinh doanh ngưng trệ, các hộ nghèo kinh doanh thua lỗ, sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng. Do đó môi trường kinh tế tác động trực tiếp tới chất lượng cho vay của ngân hàng.

Sáu là, môi trường tự nhiên:

Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh. Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên như thiên tai, động đất, hạn hán, lũ lụt, hoả hoạn… đều làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt đối với NHCSXH khách hàng chủ yếu vay vốn để phát triển các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, là

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 03/07/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí