- Cho vay ưu đãi tác động trực tiếp vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Trong nông nghiệp để chuyển đổi từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu lên một nền sản xuất hàng hóa lớn thì vấn đề quan trọng là phải thực hiện công nghiêp hóa - hiện đại hóa ngành nông nghiệp bằng cách áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa các loại giống mới có năng suất cao vào áp dụng trong thực tiễn và phải được thực hiện trên diện rộng. Vay vốn NHCSXH giúp người nghèo không những có vốn để đầu tư mà còn cung cấp kiến thức nhà nông cho hộ nghèo. Tại các buổi sinh hoạt định kỳ của tổ tiết kiệm và vay vốn có phối hợp với các tổ chức đoàn thể và chính quyền phổ biến kiến thức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hoặc dạy nghề cho các hội viên giúp hội viên có kiến thức làm kinh tế. Thông qua buổi sinh hoạt định kỳ các thành viên trao đổi kiến thức, kinh nghiệm trong chăn nuôi, trồng trọt giúp hộ nghèo đầu tư vốn hiệu quả hơn. Tín dụng hộ nghèo đã góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra các ngành nghề dịch vụ mới trong nông nghiệp, thực hiện phân công lại lao động xã hội.
- Cho vay ưu đãi hộ nghèo góp phần xây dựng nông thôn mới. Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành. Để được vay vốn ưu đãi của NHCSXH hộ nghèo phải tuân theo một số quy định bắt buộc như tự nguyện tham gia vào Tổ tiết kiệm và vay vốn, bình xét công khai hộ nghèo được vay vốn, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ chức chính trị xã hội, của cấp uỷ, chính quyền.
Tăng cường quyền lực lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền trong việc chỉ đạo phát triển kinh tế ở địa phương.
Thông qua các buổi sinh hoạt định kỳ của các tổ tiết kiệm và vay vốn, các hộ vay giúp đỡ lẫn nhau kinh nghiệm trồng trọt chăn nuôi, lồng ghép
chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình văn hóa, câu lạc bộ gia đình trẻ… nhằm xây dựng nếp sống mới ở nông thôn.
Thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn tạo điều kiện để những người nghèo có cùng hoàn cảnh gần gũi, nêu cao tính tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau tăng cường tình làng, nghĩa xóm, tạo niềm tin ở dân đối với Đảng, Nhà nước. Kết quả phát triển kinh tế đã làm thay đổi đời sống kinh tế ở nông thôn, an ninh, trật tự an toàn xã hội phát triển tốt, hạn chế được những mặt tiêu cực, bảo đảm an sinh xã hội ở nông thôn.
1.2. Chất lượng cho vay đối với người nghèo tại NHCSXH
1.2.1. Khái niệm về chất lượng cho vay đối với người nghèo
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo tại chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bắc Ninh - 1
- Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo tại chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bắc Ninh - 2
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Cho Vay Đối Với Người Nghèo Tại Nhcsxh
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Cho Vay Đối Với Người Nghèo
- Kinh Nghiệm Một Số Chi Nhánh Nhcsxh Về Cho Vay Đối Với Người Nghèo Và Bài Học Kinh Nghiệm Cho Chi Nhánh Nhcsxh Tỉnh Bắc Ninh
- Hệ Thống Chỉ Tiêu Phân Tích, Đánh Giá Chất Lượng Cho Vay Đối Với Người Nghèo
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Chất lượng cho vay là vấn đề mà tất cả các ngân hàng phải quan tâm. Rủi ro cho vay nếu xảy ra sẽ tác động xấu đến uy tín của ngân hàng và nguy cơ ngân hàng hoạt động kém hiệu quả trong tương lai là điều khó tránh khỏi, thậm chí có khi đe doạ cả đến sự tồn tại của ngân hàng. Chính vì thế, chất lượng cho vay là một trong những yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHCSXH. Tuy nhiên để đưa ra một khái niệm đúng về chất lượng cho vay không phải là dễ, đứng trên mỗi góc độ khác nhau sẽ có những quan điểm khác nhau về chất lượng cho vay. Đối với các nhà kinh tế thì chất lượng là “sự phù hợp với mục đích sử dụng”, là “một trình độ được dự kiến trước về độ đồng đều và sự tin cậy với chi phí thấp nhất và phù hợp với thị trường” hoặc “chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng”.
Chất lượng cho vay người nghèo trước tiên là sự đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng, được thể hiện ở một số chỉ tiêu như: dư nợ cho vay hộ nghèo của ngân hàng tăng trưởng nhanh, tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần và đạt mức an toàn. Chất lượng cho vay còn thể hiện ở khả năng thu hồi đầy đủ, đúng hạn nợ gốc và lãi theo đúng thỏa thuận, hiệu quả và khả năng thu hồi nợ càng lớn thì chất lượng cho vay càng cao.
Chất lượng cho vay người nghèo còn là sự đáp ứng kịp thời các nhu cầu của khách hàng như lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của cho vay.
Chất lượng cho vay đối với người nghèo là một mối quan tâm lớn đối với ngân hàng để đánh giá được đúng chất lượng cho vay đối với người nghèo, cần phải xem xét trên nhiều góc độ khác nhau.
Đối với ngân hàng: Chất lượng hoạt động cho vay đối với người nghèo được thể hiện ở một số điểm: cho vay đúng quy trình, cho vay đúng đối tượng, thu hồi nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn thỏa thuận trong hợp đồng vay vốn và đặc biệt là bảo toàn được nguồn vốn cho vay.
Đối với người nghèo: Người nghèo là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ cho vay. Vốn vay ưu đãi là nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi hộ gia đình trong quá trình sản xuất kinh doanh, mục tiêu của hộ nghèo là phải tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa hoá giá trị sử dụng của khoản vốn vay. Vì thế với người nghèo để đánh giá chất lượng cho vay của ngân hàng điều mà người nghèo quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn, số tiền được vay, quy trình cho vay, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ của khoản vay mà ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu của người nghèo hay không, làm sao để các thủ tục được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của người nghèo thì cho vay được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Như vậy, đứng trên quan điểm của người vay vốn thì đối với người nghèo chất lượng cho vay là: Sự thỏa mãn nhu cầu của người nghèo về khoản cho vay trên các phương diện lãi suất, quy mô, thời hạn, phương thức giải ngân, phương thức thu nợ, quy trình cho vay…
Đối với Nhà nước: Chất lượng cho vay đối với người nghèo thể hiện ở số hộ nghèo được vay vốn và số hộ thoát nghèo là bao nhiêu? Có đảm bảo đúng tiến độ quá trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ đặt ra?
Tóm lại, chất lượng cho vay đối với người nghèo chính là quy trình cho vay người nghèo phải đảm bảo đúng đối tượng cho vay, thủ tục đơn giản thuận tiện nhằm giúp người nghèo tiếp cận nguồn vốn ưu đãi một cách nhanh nhất, hộ nghèo sử dụng vốn vay hiệu quả, đầu tư sử dụng đúng mục đích, nâng cao đời sống, vươn lên thoát nghèo. Đồng thời ngân hàng phải đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động của đơn vị.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo
Đói nghèo là hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển; đặc biệt đối với nước ta đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, xuất phát điểm thấp, tình trạng đói nghèo không thể tránh khỏi, thậm chí trầm trọng và gay gắt. Như vậy, xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước nhằm hạn chế được các tệ nạn xã hội, tạo sự công bằng trong xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Người nghèo được hỗ trợ vốn thông qua các chương trình cho vay hộ nghèo của NHCSXH. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo là một tất yếu khách quan đối vối NHCSXH.
Về phía ngân hàng: Đảm bảo chất lượng các khoản cho vay đối với ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt đối với Ngân hàng Chính sách xã hội là một đơn vị phục vụ các đối tượng chính sách xã hội, mục tiêu hàng đầu là xóa đói giảm nghèo và bảo toàn vốn của Nhà nước. Vì thế mà, ngân hàng không thể không quan tâm đến sự an toàn của các khoản cho vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ từ nền kinh tế tự cung cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Mặt trái của nền kinh tế thị trường là phân hóa giàu nghèo, những người nghèo lại là những hộ gia đình thiếu vốn và kiến thức kinh doanh, việc kinh doanh của các hộ gia đình có nguy cơ dẫn đến rủi ro cao là rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo ngân hàng không chỉ là
người cung cấp vốn cho người nghèo mà ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của người nghèo, có như thế thì ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư vấn… giúp người nghèo tránh được những rủi ro không đáng có.
Mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo là điều kiện tối ưu cần thiết đối với NHCSXH, chất lượng cho vay đối với người nghèo vừa là yếu tố đảm bảo cho ngân hàng duy trì hoạt động và phát triển vừa giúp ngân hàng hoàn thành được sứ mệnh của mình trong công cuộc xóa đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Nếu đi ngược lại mục tiêu này, ngân hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
Về phía người nghèo: Người nghèo vay vốn là người trực tiếp sử dụng các khoản vốn vay Ngân hàng, chất lượng cho vay đối người nghèo chính là sự thoả mãn nhu cầu của hộ về món vay đó. Với nguồn vốn được NHCSXH cho vay, người nghèo phải lập phương án sử dụng vốn hiệu quả, không những đảm bảo được khả năng trả nợ gốc và lãi cho NHCSXH khi đến hạn mà còn có lợi nhuận để cải thiện cuộc sống. Vì thế đối với người nghèo vấn đề chất lượng cho vay là cần thiết và ngày càng được nâng cao.
Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề nâng cao chất lượng cho vay đối với người nghèo là rất cần thiết. Bởi một đồng vốn của NHCSXH cho vay người nghèo là cầu nối trong các mối quan hệ kinh tế. Nếu người nghèo sử dụng vốn hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc mang lại hiệu quả cho NHCSXH và cho xã hội bởi nó góp phần vào việc nâng cao đời sống của hộ nghèo, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo cho toàn xã hội, hoàn thành mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.
1.2.3. Nội dung của chất lượng cho vay
Có rất nhiều phương pháp tiếp cận chất lượng cho vay. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu cũng như đánh giá một cách toàn diện về chất lượng cho vay của ngân hàng đối với người nghèo, người ta thường xét trong mối quan hệ giữa hai mặt chất và mặt lượng.
1.2.3.1. Chất lượng tín dụng về mặt định tính
Về mặt định tính chất lượng cho vay thường được xem xét qua việc chấp hành luật pháp của Ngân hàng như luật NHNN, luật TCTD, việc chấp hành văn bản chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và của Ngân hàng, chấp hành quy chế, quy trình nghiệp vụ, chế độ, thể lệ tín dụng trong quá trình thực hiện quy trình cho vay. Khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, các Ngân hàng phải tuân thủ các điều kiện, các nguyên tắc theo quy định của Nhà nước và của thống đốc NHNN. Các nguyên tắc và điều kiện tín dụng không tách rời nhau do đó coi nhẹ bất kỳ một nguyên tức nào, một điều kiện nào cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
Nói đến chất lượng cho vay, trước hết phải xem xét đến việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng có chấp hàng tốt pháp luật, các chỉ đạo của Nhà nước, của ngành cũng như tuân thủ quy trình, quy chế nghiệp vụ tín dụng hay không.
Ngoài ra, người ta còn xem xét đến các yếu tố như khả năng thu hút khách hàng, yếu tố con người… Trước hết, con người chính là các cán bộ Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường đặc biệt với cán bộ tín dụng phải khẳng định được rằng: "Chất lượng cho vay xuất phát từ chất lượng cán bộ tín dụng”. Việc đào tạo, sử dụng, đánh giá và đề bạt cán bộ tín dụng trước hết phải xem xét về tư cách đạo đức. Tiếp đó là trình độ và năng lực của cán bộ tín dụng, phải dựa trên chất lượng của khoản tín dụng được cấp ra để đánh giá đúng mức trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng hiện có, tránh trường hợp đánh giá sai khả năng thực của cán bộ tín dụng. Cao hơn nữa là trình độ quản lý, nhận thức, chỉ đạo điều hành của người lãnh đạo vì họ chính là người đề ra các quy định, thể lệ và đưa ra các quyết định.
Khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng cần phải xem xét và họ chính là một phần trong quan hệ tín dụng, góp phần vào sự thành công của Ngân hàng. Nhưng đánh giá khách hàng về mặt định tính rất khó, vì nó chính là sự thiện chí trong việc trả nợ của khách hàng, trách nhiệm của người vay…
Việc xác định chất lượng tín dụng về mặt định tính chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người cán bộ tín dụng và người quản lý cũng như mối quan hệ của họ với khách hàng. Đặc biệt, với đối tượng vay là người nghèo, người cán bộ ngoài việc thực hiện cung cấp các khoản vay đúng theo quy định của nhà nước, còn cần phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra xem người nghèo sử dụng vốn vay có hiệu quả, đúng mục đích hay không. Thậm trí sẵn sàng giới thiệu, tư vấn các hình thức đầu tư phù hợp.
1.2.3.2. Chất lượng tín dụng về mặt lượng
Khi xem xét chất lượng tín dụng về mặt lượng, người ta thường sử dụng kết quả hoạt động của ngân hàng qua các thông số có thể lượng hóa sau đây:
* Tình hình nợ tín dụng:
- Tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng, khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán bộ công nhân viên thấp. Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao bởi vì đằng sau những khoản tín dụng đó còn những rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu.
Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, sự uy tín của Ngân hàng đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng khi so sánh với thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của ngân hàng là cao hay thấp.
Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng biết được gân hàng cần đẩy mạnh cho vay theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng. Kết cấu dư nợ khi so với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay
nào là nhiều nhất.
- Tỷ lệ nợ quá hạn
𝑇ỷ 𝑙ệ 𝑛ợ 𝑞𝑢á ℎạ𝑛 =
𝑁ợ 𝑞𝑢á ℎạ𝑛
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑑ư 𝑛ợ
× 100%
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và /hoặc lãi đó quá hạn. Chỉ tiêu này biểu hiện tỷ lệ phần trăm giữa dư nợ tín dụng được cấp ra mà không thu hồi được đúng hạn chia cho tổng dư nợ cho vay, cho thuê đến một thời điểm.
Theo quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điêu của quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2005 của thống đốc NHNN, khoản 4 Điều 1 quy định: “Đối với các khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được tổ chức tín dụng đánh gía là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật”.
Mục tiêu phấn đấu của Ngân hàng là không để xảy ra nợ quá hạn, tuy nhiên trong thực tế điều này rất khó thực hiện, vì vậy khi đánh giá về chất lượng tín dụng cần phải xem xét đến nợ quá hạn. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đó chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình và ngược lại. Trên thực tế việc kiểm soát, duy trì nợ quá hạn ở một mức độ hợp lý vẫn có thể chấp nhận được và chưa gây nguy hiểm cho hoạt động ngân hàng. Thông thường tỷ lệ này nhỏ hơn hoặc bằng 5%, và hiện nay tỷ lệ này giảm xuống 3%. Tỷ lệ nợ quá hạn ngầm chỉ ra rủi ro đối với khoản vay và hậu quả có thể xảy ra của các khoản nợ quá hạn, vì nó chỉ xem xột đến việc hoàn trả khi đó quá hạn chứ không xem xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn hay không. Chính vì vậy, nếu tổng dư nợ cho vay tăng nhanh thì việc sử dụng tỷ lệ nợ