Kết Quả Hoạt Động Của Vietinbank- Chi Nhánh 7 Từ 2009 Đến 30/09/2012- Nguồn: Báo Cáo Hoạt Động Của Vietinbank- Chi Nhánh 7.



CFO: Chi phí hoạt động.

Tỷ lệ thu nhập trước khi phân bổ được xác định bằng giá trị thu nhập ròng chia cho tổng TSC và TSN bình quân trong kỳ của đơn vị kinh doanh.

NI

NM = ------------------

(TSC+TSN)/2

Trong đó:

NM (Net Margin): Tỷ lệ thu nhập ròng trong kỳ của đơn vị kinh doanh. NI: Giá trị thu nhập ròng trong kỳ của đơn vị kinh doanh. (TSC+TSN)/2: Tổng giá trị Tài sản có và Tài sản nợ bình quân trong kỳ.

Thu nhập sau khi phân bổ (NC)

Giá trị thu nhập sau khi phân bổ của đơn vị kinh doanh được xác định bằng thu nhập trước khi phân bổ giảm trừ chi phí được phân bổ từ Trung tâm:

NC = NI - CFPB

Trong đó:


NC (Net Contribution): Giá trị thu nhập sau khi phân bổ. NI: Giá trị thu nhập trước khi phân bổ.

CFPB: Chi phí được phân bổ từ Trung tâm trong kỳ.

Tỷ lệ thu nhập sau khi phân bổ được xác định bằng giá trị thu nhập sau khi phân bổ chia cho tổng Tài sản Có và Tài sản Nợ bình quân trong kỳ của đơn vị kinh doanh.



Trong đó:

NC

NCR = ------------------

(TSC+TSN)/2

NC: Giá trị thu nhập sau khi phân bổ.

NCR: (NC rate) là tỷ lệ thu nhập sau khi phân bổ.

(TSC+TSN)/2: Giá trị bình quân của Tài sản có và Tài sản nợ trong kỳ.


Một vài số liệu về hoạt động của Vietinbank của chi nhánh 7 trong vài năm gần đây:



31/12/2009

31/12/2010

31/12/2011

30/09/2012

1. Số cán bộ CNV

118

118

121

123


2. Số dư huy động vốn


2,265,015,139,908


4,165,017,365,791


5,230,004,092,982


6,350,369,972,005

-Tổ chức kinh tế

795,880,433,916

1,631,624,143,473

2,567,751,324,471

2,447,529,821,012

-Dân cư

1,370,034,330,933

1,511,658,799,494

2,574,051,072,769

3,797,834,513,142

-Tổ chức tín dụng khác

-

-

-

62,398,565,379

3. Số dư nợ vay

1,387,581,180,237

1,976,090,664,309

4,309,932,483,497

5,859,320,119,679

4. Lợi nhuận

85,147,882,279

141,646,926,524

187,880,322,555

121,838,987,813

5. Thu nhập

308,436,956,608

649,569,759,002

1,342,433,587,454

1,220,435,815,020

6. Chi phí

223,289,074,329

507,922,832,478

1,154,553,264,899

1,098,596,827,207

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Giải pháp hoàn thiện việc ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập trung tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh 7 Thành phố Hồ Chí Minh - 8

Bảng 2.5: Kết quả hoạt động của Vietinbank- Chi nhánh 7 từ 2009 đến 30/09/2012- Nguồn: Báo cáo hoạt động của Vietinbank- Chi nhánh 7.

2.3 Đánh giá chung về những ưu điểm và tồn tại của FTP:

2.3.1 Những ưu điểm của FTP: Trên lý thuyết cơ chế này mong đạt các kết quả dưới đây:

- Đây là một cơ chế quản lý vốn khoa học với chế độ kiểm tra giám sát linh hoạt chặt chẽ trong công tác điều hành của HSC đối với các CN: Các chi nhánh không thể mua-bán vốn ngoài HSC.

- Cung cấp công cụ mạnh trong quản lý rủi ro lãi suất, giữ thanh khoản cao và linh hoạt: Hệ thống FTP cho phép mua bán vốn khớp với kỳ hạn và tính chất của giao dịch (sản phẩm, loại hình lãi suất, đối tượng khách hàng) để người quản lý có thể linh hoạt trong chính sách lãi suất và đưa ra các định hướng về kỳ hạn cho toàn hệ thống.

- Qua việc áp dụng cơ chế mua-bán vốn, tập trung vốn về Hội sở chính, từ đó luân chuyển vốn giữa các chi nhánh, giúp tận dụng nguồn vốn trong hệ thống với chi phí thấp, thời gian luân chuyển/huy động nhanh.



- Tạo động lực và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho CN: Việc thay đổi lãi suất điều hoà vốn chỉ ảnh hưởng đến các khoản tiền gửi/cho vay mới phát sinh hoặc đến kỳ điều chỉnh lãi suất, vì vậy, giảm thiểu rủi ro lãi suất cho các đơn vị và không ảnh hưởng ngay đến kết quả kinh doanh của CN như dưới cơ chế một giá. Bên cạnh đó, các khoản cho vay lãi suất thấp trước đây, theo cơ chế FTP mới, được CN nhận thức rò ràng và có động lực đàm phán tăng lãi suất cho vay, đảm bảo hiệu quả chung của CN và toàn hệ thống. Điều này tạo động lực cho CN mở rộng kinh doanh, nâng cao hiệu quả, đảm bảo phát triển theo đúng định hướng của Ban lãnh đạo VietinBank đề ra. Đồng thời đây cũng là sự công bằng đánh giá chất lượng hoạt động của CN.

- Thông tin báo cáo đáp ứng kịp thời yêu cầu quản trị NH: Chế độ báo cáo đa dạng, phong phú, tức thời giúp CN kiểm soát, đánh giá được tình hình hoạt động kinh doanh của mình, từ đó nhanh chóng đề ra các giải pháp phù hợp. Với Hệ thống FTP, trang web FTP nội bộ cung cấp các báo cáo về cho vay, tiền gửi, lợi nhuận của đơn vị kinh doanh hàng ngày, giúp đưa thông tin đến các lãnh đạo đơn vị kịp thời hơn, giảm thiểu thời gian thủ công tạo báo cáo, hạch toán… tại CN, tiết kiệm thời gian dành cho việc phân tích và đề ra chiến lược kinh doanh, quan hệ khách hàng.

Ngoài ra, hệ thống cung cấp chức năng Dự tính và Vấn tin giúp cán bộ tác nghiệp có thông tin về mua bán vốn của giao dịch trước khi thực hiện giao dịch, nhằm đưa ra quyết định tốt nhất.

- Giảm bớt khối lượng công việc thủ công và rủi ro tác nghiệp tại CN: Chương trình được vận hành tự động nên toàn bộ khối lượng công việc tính toán lãi điều hòa thủ công trước đây tại CN được thay thế bằng chương trình tính toán và hạch toán tự động. Nhờ đó, các rủi ro tác nghiệp trong quá trình tính toán được hạn chế tối đa.

- Hệ thống FTP là một công cụ tài chính mạnh để HSC điều tiết cơ cấu nguồn vốn và tài sản phù hợp, kết hợp với cơ chế quy định về lãi suất huy động và lãi suất cho vay, công tác giao kế hoạch và cân đối nhận nộp vốn hàng tháng, tạo thành các công cụ hiệu quả trong công tác điều hành vốn của VietinBank.



- Cơ chế FTP đòi hỏi tính hệ thống rất cao. Mọi cơ sở phải nghiêm chỉnh chấp hành tuyệt đối khâu hạch toán, sử dụng đúng tài khoản, đúng phân loại tiểu khoản đã quy định, nếu không, chương trình không thể xử lý tự động được hay xử lý theo hướng không mong muốn.

Đây là ưu điểm nổi bật nhưng đồng thời là nhược điểm lớn nhất khi nền kinh tế

tài chính của Việt Nam chưa đi theo bất kỳ quy chuẩn nào.

2.3.2 Những tồn tại của FTP:

Các CN chưa quen với việc xác định lãi suất cho vay và huy động căn cứ vào hệ thống giá FTP do đó khi thực hiện gặp nhiều khó khăn.

2.3.2.1 Các chi nhánh vẫn bị ràng buộc bởi hạn mức thanh toán:

Vốn do chi nhánh huy động được chuyển vào nguồn vốn chung và nguồn vốn chi nhánh cho vay được lấy từ nguồn vốn của hệ thống. Việc chi nhánh cho vay từ nguồn vốn của hệ thống được thực hiện thông qua tài khoản “Điều chuyển vốn nội bộ”. Tài khoản này có thể thâm hụt (khi tại thời điểm giá trị tuyệt đối của Tài sản Có của chi nhánh lớn hơn Tài sản Nợ) hoặc dư thừa (khi tại thời điểm giá trị tuyệt đối Tài sản Có của chi nhánh nhỏ Tài sản Nợ). Dòng tiền ra, vào tài khoản “Điều chuyển vốn nội bộ” bị giới hạn bởi các hạn mức sau đây:

+ Hạn mức thanh toán: là số tiền tối đa cho một giao dịch “mua vốn”, trường hợp chi nhánh có giao dịch mua vốn vượt hạn mức thanh toán phải có báo cáo đề xuất lên Trung tâm và giao dịch chỉ được thực hiện khi được Trung tâm phê duyệt.

+ Hạn mức chênh lệch ròng: là mức thâm hụt tối đa trên tài khoản “Điều chuyển vốn nội bộ” đối với từng chi nhánh, thể hiện chênh lệch tại thời điểm giữa giới hạn dư nợ của chi nhánh với số dư huy động vốn.

2.3.2.2 Việc tồn tại của hạn mức thanh toán là do các chi nhánh bị ràng buộc bởi hạn mức tín dụng và đầu tư trên thị trường tiền tệ. Hạn mức tín dụng Hội sở chính cấp cho chi nhánh còn gây nhiều tranh cãi vì nặng tính chủ quan. Trong khi quản lý vốn được ứng dụng cơ chế khoa học là cơ chế quản lý vốn tập trung, các chỉ tiêu về huy động vốn và hạn mức tín dụng lại được giao một cách cảm tính bằng cách lấy số dư thực tế của năm trước và cộng thêm dự đoán tốc độ phát triển kinh tế



địa phương. Dù trong thực tế, địa phương chưa đạt tốc độ phát triển kinh tế như kỳ vọng, chi nhánh rất khó xin điều chỉnh giảm chỉ tiêu ban đầu. Đây là những bất hợp lý cần được xem xét gỡ bỏ để giúp các chi nhánh chủ động hơn trong quá trình kinh doanh.

2.3.2.3 Vẫn còn sự tồn tại của Phòng nguồn vốn tại các chi nhánh: ưu điểm chính của cơ chế quản lý vốn tập trung là tập trung mọi rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản và rủi ro tỷ giá về Hội sở chính, đồng thời quản lý thống nhất và tập trung nguồn vốn của cả hệ thống. Tuy nhiên, Vietinbank hiện tại vẫn còn duy trì Phòng nguồn vốn tại các chi nhánh để làm báo cáo theo yêu cầu của các phòng ban tại HSC. Về nguyên tắc, HSC tập trung cơ sở dữ liệu của toàn hệ thống để từ đó chiết xuất ra mọi báo cáo cần thiết. Trong thực tế, theo thói quen từ lâu đời, người ta cứ đẩy báo cáo về cơ sở để lấy chữ ký của chi nhánh. Đây là sự lãng phí nguồn lực rất lớn.

2.3.2.4 Chưa đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh của các chi nhánh do áp dụng cơ chế một giá.

- Trong một hệ thống hạch toán toàn ngành, giao dịch tạo lãi cho chi nhánh đồng thời tạo lãi cho HSC, còn giao dịch gây lỗ cho chi nhánh, ít nhất cũng giảm lãi của HSC. HSC có mảng kinh doanh riêng ở những lãnh vực mà họ không cho phép chi nhánh thực hiện như dealing trên thị trường ngoại hối quốc tế hay đầu tư giấy tờ có giá trên thị trường mở (OMO) và trên thị trường liên Ngân hàng. Kết quả kinh doanh này có thể là lãi hay lỗ, sẽ hòa vào kết quả chung của hệ thống, nhưng dưới danh nghĩa thành tích của riêng HSC nếu kết quả là lãi. Nếu kết quả là lỗ, mọi phần tử sẽ cùng chia sẻ kết quả chung cuộc của toàn hệ thống.

Cả đơn vị là một pháp nhân và chỉ có một bảng cân đối chung duy nhất làm cơ sở để nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là mọi người (tại HSC hay chi nhánh) phải góp phần làm tăng lợi nhuận chung theo cách riêng của mỗi người để tạo nên sức mạnh tổng hợp đẩy cả hệ thống đi lên. Việc cân phân mức đóng góp của mỗi phần tử không mang lại tác dụng tích cực như mong đợi vì:

+ Bao giờ tiền lương cũng tăng chậm hơn hiệu suất lao động



+ Việt Nam còn khống chế mức lương trần

+ Trong Ngân hàng có người ở bộ phận hành chánh, kho quỹ không trực tiếp nhưng có góp phần tạo ra lợi nhuận. Vietinbank chọn cách trả lương khoán có khống chế trần, tạo nên bất hợp lý vì khi doanh số hoạt động tại chi nhánh tăng mạnh, các bộ phận gián tiếp này làm việc vất vả hơn nhiều nhưng không được hưởng gì từ lợi nhuận tăng thêm.

Cách làm này quay về tư tưởng cực đoan, ấu trĩ, “phi sản xuất là ăn bám” đã bị sự nghiệp “đổi mới” đả phá hơn 20 năm qua.

2.3.2.5 Cơ chế FTP không mới trên thế giới, như đã phân tích ở chương 1, các Ngân hàng trên thế giới đã áp dụng từ lâu, song điều khác cơ bản giữa họ với Việt Nam là chi nhánh của họ hoạt động độc lập thực sự theo chiến lược kinh doanh của HSC, có đủ vốn điều lệ theo luật định, cho nên với họ, hệ thống chỉ bao gồm một Trụ sở chính và vài chi nhánh phụ thuộc, không gian khá hẹp để gần như nằm trọn trong một phân khúc thị trường cụ thể để cơ chế FTP phát huy tác dụng.

Trong khi đó ở Việt Nam, chi nhánh không được cấp vốn điều lệ, hệ thống cả nước bao gồm hàng trăm chi nhánh, hàng ngàn phòng giao dịch, nằm trên nhiều phân khúc thị trường khác nhau, cơ chế FTP lại đòi hỏi tính hệ thống rất cao nên khó phát huy tác dụng như mong muốn.

2.3.2.6 Định giá mua/bán vốn theo giá thị trường nào?

Cốt lòi của cơ chế quản lý vốn tập trung là định giá mua/bán vốn, được hiểu là theo giá thị trường. Khi hệ thống trải rộng trên nhiều phân khúc thị trường khác nhau, giá của phân khúc nào sẽ được chọn để áp đặt cho toàn hệ thống. Đây là một bất hợp lý trong thực tế, khi không thể có giá nào phù hợp cho mọi phân khúc. Nếu điều chỉnh theo khiếu nại của chi nhánh, HSC sẽ phá vỡ tính hệ thống của cơ chế. Thị trường Hà Nội chắc chắn sẽ khác với thị trường Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh hay Cần Thơ.

2.3.2.7 Áp đặt một giá mua/bán vốn sẽ cản trở kinh doanh lành mạnh của cơ sở nếu giá đó không phù hợp với phân khúc thị trường tại chỗ. Các chi nhánh thường than phiền giá mua vốn của HSC quá thấp, chi nhánh muốn có thu nhập



phải huy động vốn với lãi suất thấp hơn nữa cho nên không thể huy động được vốn ở các phân khúc thị trường đang bị cạnh tranh quyết liệt. Chi nhánh cũng than phiền giá bán vốn của HSC quá cao, chi nhánh muốn có thu nhập phải nâng lãi suất cho vay lên nữa, thế là đội giá thị trường, không tìm được khách hàng tốt để cho vay.

Để hoàn thành chỉ tiêu được giao về huy động hay cho vay, chi nhánh phải đánh liều thực hiện theo giá tại chỗ và tự giải quyết khoản chênh lệch. Phòng ALCO ở HSC chắc chắn nắm bắt tình hình qua các bất hợp lý trên cân đối của chi nhánh nhưng không có động thái gì.

2.3.2.8 Sự ràng buộc chi nhánh chỉ được mua/bán vốn với HSC, chỉ được quan hệ với các tổ chức tín dụng khác khi được Ban điều hành phê duyệt bằng văn bản với ý định quản lý vốn tập trung để tạo sức mạnh tổng hợp và tiết kiệm chi phí, trong thực tế không khuyến khích chi nhánh mở rộng hoạt động. Nếu bản thân HSC để xảy ra rủi ro phải trích dự phòng cao làm giảm hay mất lợi nhuận chung, dù chi nhánh có làm tốt đến đâu, họ cũng không bao giờ được hưởng và thưởng đúng theo thành quả đã tạo nên.

- Với cách vận dụng cơ chế quản lý vốn tập trung hiện tại ở Vietinbank, khi giao chức năng mua bán vốn về cho chi nhánh, HSC chỉ cho chi nhánh hưởng lãi định mức trên mức huy động hay cho vay còn HSC hưởng trọn phần siêu ngạch do chênh lệch với lãi suất thị trường với danh nghĩa HSC gánh chịu rủi ro lãi suất. Trong thực tế, ngay khi vừa có tin đồn Nhà nước giảm lãi suất huy động vốn, HSC lập tức thông báo giảm giá mua vốn FTP, nhưng chưa vội giảm giá bán vốn FTP, tự tạo ra khoản chênh lệch đáng kể (lợi nhuận siêu ngạch).

2.3.2.9 Các chi phí quản lý điều hành chung được phân bổ về từng phòng, tổ trong chi nhánh theo tỷ lệ quỹ lương, tuy chưa hợp lý lắm nhưng vẫn tạm chấp nhận được. Nhưng các chi phí giao tế, tiếp khách của lãnh đạo nếu không thể phân bổ thẳng cho bộ phận nghiệp vụ nào sẽ là gánh nặng cho Phòng hành chính, là phòng không trực tiếp tạo ra lợi nhuận. Hơn nữa, đối với người được quy hoạch vào diện cán bộ khung, trong quá trình đào tạo, phí tổn là gánh nặng của đơn vị nơi họ đang làm việc với mức đóng góp vào lợi nhuận khá hạn chế, còn sau này hiệu quả



sẽ phát huy tại đơn vị khác. Cách hạch toán chi phí này chưa phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

- Với các Ngân hàng trên thế giới, cơ chế FTP tích cực hỗ trợ nhà điều hành trong việc quản trị các nguồn lực nội bộ để nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần. Riêng với Vietinbank, cơ chế này trước mắt lý giải cách phân bổ tiền lương chưa hợp lý khi bộ phận tổ chức- lao động- tiền lương quá lúng túng trong việc đánh giá chuẩn xác năng lực làm việc của từng người lao động và chưa sẵn sàng tự nhận trách nhiệm về sự đánh giá này để xác định mức lương hợp lý phải trả cho từng người lao động.

2.3.2.10 Các kiểu áp đặt trong phân nhiệm chức năng giữa HSC và CN.

Khi đưa chức năng bán hàng (sale) về chi nhánh, HSC chỉ muốn CN làm đại lý độc quyền cho các sản phẩm dịch vụ riêng của hệ thống mình, theo giá do mình áp, đại lý chỉ hưởng chiết khấu theo quy định. Như vậy, khi doanh số bán không như kỳ vọng, đại lý phải bị giải tán, hay dời đến mặt bằng khác tốt hơn. Một phân tích sẽ kết luận lỗi do đâu, trên cơ sở ấy có phương án khắc phục.

-Do nhân sự có cung cách bán hàng chưa tốt

-Do sản phẩm cung ứng không hợp với thị hiếu tại địa phương

-Do địa điểm không đắc địa

Đây là cách làm thụ động, nặng tính áp đặt, cho nên không thể đòi hỏi sự tuyệt

đối ở người bán hàng mà phải có sự chia sẻ của Trung tâm vốn HSC.

Người bán hàng thực sự có quyền đặt yêu cầu về sản phẩm đối với nhà cung cấp, thậm chí vì lợi ích của bản thân và trách nhiệm với người tiêu dùng sản phẩm, có thể thay đổi nhà cung cấp khác khiến người bán hàng này cực kỳ năng động dưới áp lực của cạnh tranh trên thị trường.

Sự phân biệt này giúp Trung tâm vốn HSC nhận thức đầy đủ hơn về chức năng bán hàng để không xem người bán hàng cấp dưới là đối tượng thừa hành mà người cộng tác đóng góp vào lợi ích chung. Giả sử người bán hàng là đối tác, HSC phải hết lòng chăm sóc họ vì họ là cầu nối giữa cung ứng và sử dụng dịch vụ, chính họ có vai trò định hướng cho sản phẩm dịch vụ ngân hàng.

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí