Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Cơ Chế Quản Lý Vốn Tập Trung Tại Nhtmcp Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh 7 Tp Hồ Chí Minh



2.3.3 Nguyên nhân tồn tại:

Thứ nhất, về việc triển khai ứng dụng cơ chế, ngân hàng công thương chưa có phương pháp triển khai ứng dụng một cách khoa học, thể hiện qua việc lúng túng trong ứng dụng chương trình và kết quả kinh doanh thua lỗ của các chi nhánh trong những ngày đầu triển khai cơ chế mới.

Thứ hai, bản thân cơ chế quản lý vốn tập trung cũng có nhược điểm. Cần phải hiểu là không có một cơ chế nào tối ưu, bản thân cơ chế Quản lý vốn tập trung cũng chỉ giải quyết được một phần của những bất cập trong quản trị nguồn vốn của các ngân hàng. Điều quan trọng là cách vận dụng linh hoạt của các nhà quản trị ngân hàng đối với cơ chế này sao cho cơ chế phát huy hiệu quả cao nhất.

Vì vậy, các giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tập trung phải giải quyết được 2 vấn đề trên: Phương pháp triển khai ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập trung và Giải pháp khắc phục nhược điểm của cơ chế.

Kết luận chương 2


Đây là phần trình bày tình hình thực hiện cơ chế Quản lý vốn tập trung tại Vietinbank trên cơ sở so sánh nội dung cơ bản của hai cơ chế cũ và cơ chế mới – cơ chế Quản lý vốn tập trung. Cơ chế này đã giúp các nhà điều hành (tại các Ngân hàng trên thế giới) quản trị tốt hơn các nguồn lực nội bộ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường. Khi du nhập cơ chế này vào Việt Nam, Vietinbank không lưu ý đến yếu tố môi trường để cơ chế quản lý vốn tập trung phát huy tác dụng như đối với các ngân hàng trên thế giới.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ VỐN TẬP TRUNG TẠI NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH 7 TP HỒ CHÍ MINH

Giải pháp hoàn thiện việc ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập trung tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh 7 Thành phố Hồ Chí Minh - 9

3.1 Định hướng phát triển ngành ngân hàng đến năm 2015:

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 – 2015; trong đó mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rò rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.”

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 – 2015, Chính phủ cùng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng các kế hoạch để thực hiện những định hướng phát triển phù hợp với xu thế mới.

3.1.1 Kế hoạch của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam:

Chính sách tín dụng được xem xét với mức độ hợp lý:

Năm 2012, Quốc hội đã thông qua một số chỉ tiêu phát triển kinh tế, trong đó, tăng trưởng tín dụng hệ thống từ 15 - 17%. Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu này vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức 6 - 6,5%.

Những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu của tín dụng là: phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là khôi phục sức sản xuất ở những vùng bị thiên tai, bão lụt; tập trung sản xuất hàng xuất khẩu; phục vụ công nghiệp phụ trợ; doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ngoài ra, đối với dư nợ cho vay phi sản xuất, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo hệ thống ngân hàng thương mại dành một tỷ trọng tín dụng thích hợp đối với những người có thu nhập thấp, thu nhập trung bình; dự án xây dựng nhà an sinh xã hội…



Ngân hàng Nhà nước nới lỏng tín dụng phi sản xuất trong năm 2012 và chế tài đối với những đơn vị không hoàn thành chỉ tiêu 16% vào 31/12/2012.

Ngoài ra, dư nợ cho vay bất động sản cần được xem xét và điều chỉnh để có những chính sách phù hợp.

Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng:

Xây dựng quy định góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng: Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015", có mục tiêu phấn đấu tới năm 2015, Việt Nam sẽ có 1

- 2 ngân hàng quy mô và trình độ tương đương trong khu vực.

Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Quyết định về việc góp vốn mua cổ phần tại các tổ chức tín dụng.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng, trình phương án xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng và tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nhà nước đến 2015. Đến năm 2015 chúng ta cố gắng đưa nợ xấu của các ngân hàng xuống dưới 3% đúng theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

Theo đề án tái cơ cấu ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước sẽ chia các tổ chức tín dụng thành 3 nhóm (lành mạnh, thiếu thanh khoản tạm thời và yếu kém). Kế hoạch là khuyến khích các tổ chức tín dụng lành mạnh sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức yếu kém. Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tái cấp vốn cho các tổ chức thiếu thanh khoản.

Riêng tổ chức tín dụng yếu kém phải chịu sự giám sát đặc biệt, hạn chế nhóm tổ chức tín dụng này chia cổ tức, lợi nhuận. Sau khi áp dụng các biện pháp đảm bảo khả năng chi trả, tổ chức tín dụng yếu kém sẽ được sáp nhập, hợp nhất, mua lại.

Trong đề án tái cơ cấu ngân hàng, việc cho phép các tổ chức nước ngoài mua lại, sáp nhập và tham gia tiến trình tái cơ cấu cũng được đề cập tới. Các tổ chức nước ngoài sẽ được tăng giới hạn sở hữu cổ phần tại các ngân hàng thương mại yếu kém.

Về lộ trình, trong năm 2012 sẽ triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng, tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu. Năm 2013 là thời gian để hoàn thành căn bản cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Mục tiêu trong năm này là loại bỏ nguy cơ đổ



vỡ các tổ chức tín dụng. Năm 2014, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai tiến trình sáp nhập, hợp nhất, mua lại các ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện để năm 2015 hoàn thành toàn bộ quá trình tái cơ cấu.

Dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài từ năm 2008 đến năm 2011, năm 2012 vẫn còn khó khăn, kỳ vọng đến năm 2013 sau chu kỳ 5 năm nền kinh tế sẽ khởi sắc lại. Thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam sẽ từng bước phát triển nhanh trên cơ sở tái cấu trúc lại hoạt động ngân hàng. Việc tái cấu trúc hướng đến mục tiêu đạt được các NHTM có năng lực, quy mô tài chính lớn hơn; năng lực công nghệ hiện đại; năng lực quản trị điều hành được nâng cao hơn sẽ phát triển bền vững ổn định hơn, có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực.

Kiểm tra thanh tra giám sát chặt chẽ:

Cần rà soát toàn bộ hệ thống quản trị rủi ro ở các ngân hàng thương mại cũng như hệ thống tự giám sát của họ. Để tái cơ cấu thành công một ngân hàng, không thể không nhắc đến vai trò của hệ thống giám sát, trong đó, vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính phải được phân định rò ràng. Và chương trình giám sát đó không chỉ trong quá trình tái cơ cấu mà còn ở giai đoạn tiếp theo, để đảm bảo rằng, sau tái cơ cấu, chất lượng tài sản ở các ngân hàng không tồi tệ trở lại như hiện nay.

Xây dựng các luật, thông tư hướng dẫn hoạt động ngân hàng để xác định rò đâu là ngân hàng thương mại cần xử lý. Tiến hành thanh tra tại chỗ hoặc mời kiểm toán độc lập đến kiểm tra để bảo đảm tính khách quan.. Tạo nên tính minh bạch, công khai, rò ràng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và giữa các Bộ, ban, ngành trong hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, định hướng chính sách tiền tệ theo dự thảo phát triển kinh tế- xã hội năm 2011 và năm 2012 cũng đã nêu ra: Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng. Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỷ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối, từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn, tiến tới xóa bỏ tình



trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.

3.1.2 Định hướng phát triển của Vietinbank đến năm 2015:

Năm 2012, Vietinbank chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, tăng vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh, đồng thời tập trung thực hiện tái cấu trúc toàn diện ngân hàng theo hướng hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đầu tư công nghệ hiện đại, chuẩn hóa toàn diện hoạt động quản trị điều hành, sản phẩm dịch vụ, cơ chế, quy chế, từng bước hội nhập quốc tế để giá trị thương hiệu Vietinbank được nâng cao trên cả thị trường trong nước và quốc tế; nhằm thực hiện mục tiêu tầm nhìn 2015 là trở thành Tập đoàn tài chính ngân hàng hiện đại, hiệu quả và chủ lực của nền kinh tế theo phương châm:” An toàn- Hiệu quả- Hiện đại- Tăng trưởng bền vững”.

Tiếp tục bám sát chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, tích cực thực thi chính sách tiền tệ, góp phần làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, đồng thời thực hiện có kết quả các mục tiêu nhiệm vụ, định hướng chiến lược hoạt động của VietinBank năm 2010-2015 là:

Tổng tài sản tăng trung bình 20%;

Nguồn vốn tăng 20%;

Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): từ 18% - 19%;

Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA): 1,53%;

Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) > 10%.

Tỷ lệ nợ xấu < 2,5%.

Cụ thể hóa những chiến lược phát triển được Vietinbank triển khai trong thời

gian tới như sau:

Chiến lược về tài sản và vốn:

Tăng quy mô tài sản hàng năm trung bình 20-22%



Tiếp tục đẩy nhanh lộ trình cổ phần hóa để tăng vốn chủ sở hữu, đảm bảo đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển trong thời gian tới, đặc biệt là để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn.

Đa dạng hóa cơ cấu sở hữu theo nguyên tắc Nhà nước sở hữu 51% trở lên.

Chiến lược về tín dụng và đầu tư:

Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ lực, cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường.

Điều chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với thế mạnh của Vietinbank; Tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng, bảo đảm nợ xấu chiếm dưới 3%

Đa dạng hóa các hoạt động đầu tư tín dụng trên thị trường tài chính, giữ vai trò định hướng trong thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và quản lý thanh khoản của ngân hàng;

Chiến lược về dịch vụ:

Phát triển đa dạng các dịch vụ ngân hàng có thu phí, xác định nhóm dịch vụ mũi nhọn để tập trung phát triển;

Dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại để phát triển dịch vụ, lấy mức độ thỏa mãn nhu cầu khách hàng làm định hướng phát triển;

Chiến lược về nguồn nhân lực:

Tiêu chuẩn hóa nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo nâng cao năng lực trình độ của cán bộ;

Đổi mới và hoàn thiện cơ chế sử dụng lao động và cơ chế trả lương; Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực và chuyên nghiệp;

Quán triệt thực hiện Quy chế nội quy lao động và văn hóa Doanh nghiệp;

Chiến lược về công nghệ:

Coi ứng dụng công nghệ thông tin là yếu tố then chốt, hỗ trợ mọi hoạt động

phát triển kinh doanh;

Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, an toàn, có tính thống nhất- tích hợp- ổn định cao;

Chiến lược về bộ máy tổ chức và điều hành:



Điều hành bộ máy tổ chức với cơ chế phân cấp rò ràng, hợp lý;

Phát triển và thành lập mới các công ty con theo định hướng cung cấp đầy đủ các sản phẩm dịch vụ tài chính ra thị trường;

Mở rộng mạng lưới kinh doanh, thành lập mới chi nhánh, phát triển mạnh hệ thống ngân hàng bán lẻ.

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tập trung tại NHTMCP Công

thương Việt Nam:

Trong thực tế chưa có cơ chế nào tối ưu; bản thân cơ chế Quản lý vốn tập trung cũng chỉ giải quyết được một phần của những bất cập trong quản trị nguồn vốn của các ngân hàng. Trong Chương 2, chúng ta đã tìm hiểu về tình hình thực hiện cơ chế FTP tại Vietinbank, qua đó thấy được những nhược điểm khi áp dụng mô hình này. Để cơ chế này hoàn thiện hơn, luận văn trình bày một số giải pháp khắc phục các khuyết điểm trên:

3.2.1 Quy định hạn mức thanh toán hợp lý cho Chi nhánh:

HSC phải phối hợp đồng bộ và giải quyết nhanh các nhu cầu vốn cho chi nhánh, tránh tình trạng chờ đợi, gây lãng phí thời gian và nguồn lực hoặc mất khách hàng do HSC không đưa ra quyết định kịp thời trong khâu xét duyệt bán vốn cho chi nhánh.

Mỗi CN phải được cấp hạn mức tín dụng hợp lý; việc này đòi hỏi HSC so sánh chính xác các số liệu lịch sử với hiện tại đồng thời dựa trên những nhu cầu và khả năng của CN, không dựa vào cảm tính đưa ra các chỉ tiêu bất hợp lý, khiến CN khó khăn không thể phối hợp và thực hiện được các chỉ tiêu đề ra.

Trong kinh doanh, để đảm bảo an toàn, quản lý được rủi ro tiềm ẩn, đồng thời phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, Hội sở chính giao các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh trong năm, ấn định các hạn mức, giới hạn thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay, việc giao chỉ tiêu dư nợ tín dụng và chỉ tiêu huy động vốn cho chi nhánh không tuân thủ qui định của ngành, vì thế tồn tại những bất hợp lý và có thể phát sinh tiêu cực khi chi nhánh muốn tăng dư nợ tín dụng so với mức được giao. Vì vậy, để tạo điều



kiện cho các chi nhánh chủ động trong kinh doanh, việc giao chỉ tiêu dư nợ tín dụng

và huy động vốn nên căn cứ vào các qui định của pháp luật hiện hành. Cụ thể: Hệ số giới hạn huy động vốn: H1 ≥ 5%

H1 = Vốn tự có/ Tổng nguồn vốn huy động x 100% Hạn mức cho vay:

Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô.

Như vậy, hạn mức thanh toán của chi nhánh sẽ phụ thuộc vào các hệ số trên. Việc giao chỉ tiêu căn cứ vào qui định của pháp luật sẽ tạo tính rò ràng, minh bạch trong nội bộ ngân hàng.

Trung tâm vốn HSC thích giao chỉ tiêu vượt quá khả năng thực hiện của CN. Đầu năm 2011 giao cho CN phải tăng trưởng nguồn vốn huy động 66% và tăng trưởng dư nợ 50% so với năm 2010. Tại thời điểm đó, thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khống chế tăng trưởng tín dụng cho từng NHTM từ 15-17% lẽ ra HSC phải chủ động điều chỉnh chỉ tiêu đã giao cho CN, nhưng họ cứ để mặc cho đến khi bị NHNN VN cảnh cáo vi phạm, đến lúc gần hết năm 2011 mới có văn bản điều chỉnh giảm chỉ tiêu.

Các chỉ tiêu dư nợ và huy động vốn ảnh hưởng đến nhiều cân đối khác của Ngân hàng. Khi không tăng trưởng được dư nợ tín dụng (vì chính sách vĩ mô), việc giữ nguyên chỉ tiêu huy động vốn vô tình để lại nhiều nghi vấn tai hại. Huy động nhiều vốn để làm gì? Để chịu chi phí cơ hội khi không cho vay ra được? CN chỉ biết tuân thủ nhưng thắc mắc của khách hàng ảnh hưởng đến thương hiệu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022