Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Hoạt Động Của Ngân Hàng

các doanh nghiệp, không tạo ra tính an toàn cho các hoạt động kinh doanh. Một môi trường pháp lý không hoàn chỉnh vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng, vừa tạo khe hở để kẻ xấu lợi dụng gây rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.

Nhân tố xã hội: Là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Do đó đạo đức xã hội có liên quan tới rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo; hoặc do trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn tới hiểu chưa đùng đắn bản chất của hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng, kinh doanh kém hiệu quả gây tổn thất với ngân hàng, hoặc do sự thay đổi yếu tố tâm lý xã hội cũng có khả năng hạn chế việc trả nợ của người vay.

Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng chịu tác động của các biến cố như thiên tai, chiến tranh…không thể lường trước có tác động trực tiếp và ảnh hưởng nghiêm trọng tới kế hoạch trả nợ vay của người đi vay.

Bên cạnh đó những thay đổi, điều chỉnh về cơ chế, về chính sách kinh tế vĩ mô…cũng có thể đặt doanh nghiệp vào những tình huống khó khăn có thể kéo theo nguy cơ thiệt hại cho ngân hàng.

1.2.2.2 Các nhân tố chủ quan

* Các nhân tố thuộc về khách hàng

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng luôn có hai chủ thể là ngân khách hàng và NHTM. Theo thống kê cho thấy, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ khách hàng là phổ biến nhất bởi khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay. Nhân tố này rất đa dạng nhưng có thể phân chia thành hai trường hợp chính sau đây:

+ Do khách hàng kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ. Nguyên nhân có thể do năng lực quản lý kinh doanh kém, sử dụng vốn vay sai mục đích…Hơn nữa nếu tỷ lệ vốn tự có trong tổng vốn kinh doanh của doanh

nghiệp thấp, chủ yếu là vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ lao theo những

cơ hội đầy mạo hiểm, đến khi gặp rủi ro thì ngân hàng phải gánh chịu.

+ Do khách hàng không tuân thủ các quy định, cố tình lừa đảo để chiếm dụng vốn ngân hàng. Nhiều trường hợp khách hàng chủ ý cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch, làm cho ngân hàng đánh giá sai về năng lực tài chính của họ; thậm chí có khách hàng đủ năng lực tài chính để thực hiện các điều khoản cam kết trong hợp đồng nhưng vẫn cố tình chây ỳ không chịu thực hiện nghĩa vụ. Việc khiếu kiện cũng chỉ là giải pháp bị động, bất đắc dĩ, chi phí tốn kém; hơn nữa nếu các cơ quan pháp luật điều tra thiếu khách quan, xét xử thiếu công bằng thì ngân hàng phải chịu thiệt hại cả hữu hình lẫn vô hình.

Như vậy, khách hàng vừa là người mang lại thu nhập cho ngân hàng đồng thời đưa lại cho ngân hàng cả những nguy cơ rủi ro. Cho nên nếu hạn chế được những nguy cơ đó sẽ làm tăng đáng kể lợi nhuận cho ngân hàng.

* Nhân tố từ phía ngân hàng

Ngoài nhân tố ảnh hưởng từ nhân tố khách hàng, rủi ro tín dụng cũng chịu ảnh hưởng bởi nguyên nhân từ phía ngân hàng bởi ngân hàng là người quyết định có cho vay hay không. Những ảnh hưởng từ nhân tố này được tổng hợp như sau:

+ Trước tiên, phải kể đến sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Nếu cán bộ làm công tác ngân hàng, nhất là cán bộ tín dụng, non kém về trình độ, về năng lực nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng xử lý thông tin và thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, xác định kỳ hạn của các khoản vay chưa phù hợp, không có khả năng theo dõi các khoản tín dụng đã cấp từ đó dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, mức độ rủi ro cao. Gắn liền với hạn chế về năng lực, vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ. Tư chất đạo đức kém, thiếu tinh thần trách nhiệm làm cho con người dễ bị lôi cuốn bởi những cán dỗ vật chất có thể hành động trái đạo lý, trái pháp luật, gây thiệt hại đáng kể cho ngân hàng.

+ Thứ hai là vấn đề chất lượng thông tin thấp. Thông tin ở đây bao gồm cả thông tin tài chính và phi tài chính. Có thể khái quát là những thông tin liên quan đến những hoạt động sản xuất kinh doanh trước đây và nhu cầu trong hiện tại của khách hàng và những thông tin phản ánh trình độ, năng lực quản lý, uy tín, quan hệ của khách hàng, tình hình kinh tế - xã hội, xu hướng phát triển, quan hệ cung cầu, cạnh tranh của một ngành kinh doanh trên thị trường. Yêu cầu đối với thông tin là phải chính xác, đầy đủ, kịp thời.

+ Thứ ba là nhân tố chính sách tín dụng của ngân hàng. Nếu không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và có thể tạo ra nhiều rủi ro. Thí dụ như nhiều ngân hàng lại quá chú trọng vào việc có hay không có tài sản thế chấp, chỉ đặt ra yêu cầu có thế chấp đầy đủ là được nhận tín dụng, dẫn đến việc nới lỏng trong thẩm định cũng như giám sát thực hiện hợp đồng; có khi một tài sản thế chấp được quay vốn nhiều lần để rút vốn ngân hàng mà không bị phát hiện, nhất là khi vài ngân hàng cùng cho vay một khách hàng mà khách hàng đó không trung thực. Việc tập trung tín dụng cho một số đối tác làm ăn quen thuộc, thoạt xem có thể an toàn nhưng thực ra một danh mục cấp tín dụng thiếu đa dạng lại hàm chứa rất nhiều rủi ro khi “ bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Các ngân hàng có xu hướng muốn nhanh chóng tăng số dư nợ nhưng việc mở rộng tín dụng quá nhanh cũng đe doạ gây tình trạng quá tải, vượt quá khả năng quản lý của ngân hàng. Như vậy, một chính sách tín dung thiếu linh hoạt, không phù hợp cũng là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ rủi ro tín dụng.

Một ảnh hưởng nữa góp phần quan trọng thêm mức độ rủi ro của các khoản tín dụng là do các ngân hàng không thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc quản lý kinh tế tài chính, thể lệ tín dụng; những nguyên tắc quy chế cầm cố, bảo lãnh, thế chấp…Nguy cơ đe doạ hoạt động kinh doanh bất thường của ngân hàng cũng sẽ càng lớn nếu như không có hoặc trích lập thiếu các khoản dự phòng rủi ro. Tuy nhiên những sai phạm này tương đối dễ phát hiện và khắc phục hơn so với những nguyên nhân trước.

1.3 QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI


1.3.1 Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng

Đối với bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, khi rủi ro xảy ra đều kéo theo nó những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục. Với rủi ro trong hoạt động tín dụng cũng vậy. Chính vì thế, quản trị rủi ro được coi là hoạt động trọng tâm trong các tổ chức tài chính – ngân hàng bởi kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động. Mặt khác, nền kinh tế thị trường nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Do đó, quản trị rủi ro là một nhu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của NHTM.

Quản trị rủi ro tín dụng là hoạt động trong đó những nghĩa vụ, biện pháp, phương pháp quản trị có quan hệ lẫn nhau được thực hiện nhằm đảm bảo rủi ro tín dụng trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận được.

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách và biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, tuy nhiên đó cũng là công việc rất khó khăn và phức tạp.

Chủ thể của hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng là sự thống nhất của nhiều cấp độ: của Hội đồng quản trị của ngân hàng, của Ban Giám đốc, của bộ phận quản lý tín dụng và ngay bản thân mỗi cán bộ tín dụng của ngân hàng.

Mục đích chung nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận đựơc. Mà mục đích này phụ thuộc vào mục đích hoạt động của ngân hàng là tối đa hoá giá trị mà ngân hàng hi vọng đựoc xác định trong điều kiện biến động của môi trường kinh doanh.

Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro của NHTM bao gồm: những đánh giá mức độ rủi ro, thực thi những giải pháp quản trị hạn chế khả năng xảy ra rủi ro. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng gắn chặt với hoạt động của cấp tín dụng.

Hiện nay vẫn có sự phân biệt chưa rõ ràng giữa quản trị và quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng là: việc tổ chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động, các quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Công tác quản lý này được thực hiện ngay từ khi xem xét hồ sơ xin vay vốn, thẩm định khách hàng, ký kết hợp đồng tín dụng và việc thực hiện giải ngân và kiểm soát khi cho vay đến việc thu nợ và xử lý nợ quá hạn. Đó cũng không phải là một vấn đề dễ dàng thực hiện.

1.3.2 Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng

Các rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, thường là 90% các loại rủi ro cơ bản. Gỉa sử thiệt hại của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vao rủi ro tín dụng. Trong hoạt động của mình, nhìn chung các ngân hàng chỉ chấp nhận rủi ro tín dụng mà mức độ thiệt hại tối đa không cao hơn mức lợi nhuận mong đợi. Tuy nhiên trên thực tế, có thể xảy ra các tính huống khác:



Khả năng thiệt hại của ngân hàng

Lợi nhuận

Chi phí

Vốn tự có

Vùng rủi ro

cho phép

Vùng rủi ro

nguy hiểm

Vùng rủi ro

Thảm khốc




Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong - 4


Điểm bắt đầu giảm lợi nhuận

Điểm bắt

đầu thua lỗ

Điểm không có doanh thu

Điểm mất vốn tự có và phá sản


Trong một môi trường hoạt động tiếm ẩn nhiều rủi ro, nếu một ngân hàng yếu kém trong quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro tín dụng có thể xảy ra ngoài mong đợi, không kiểm soát được.

* Thiệt hại cho ngân hàng trước tiên phải kể đến: tác động đối với ngân hàng.

- Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ dẫn đến phát sinh các khoản nợ khó thu hồi, gây

ảnh hưởng làm ứ đọng vốn dẫn đến làm giảm vòng quay vốn ngân hàng.

Tiếp nữa có thể phát sinh các khoản chi phí quản lý, giám sát, từ việc tăng lãi suất của các khoản nợ quá hạn sẽ làm cho những khoản chi phí trên lớn hơn thu nhập. Mặt khác ngân hàng vẫn phải trả lãi cho khoản tiền huy động được…tất cả làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm sút.

- Các khoản vay không được thanh toán đầy đủ, đúng hạn dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền vào và ra trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Các khoản tiền gửi của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng hạn trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại không được hoàn trả đúng thời hạn. Nếu như ngân hàng không có biện pháp phù hợp thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán.

- Tình trạng khó khăn trong khâu thanh toán của ngân hàng cứ tiếp diễn và bị tiết lộ ra công chúng sẽ kéo theo uy tín của ngân hàng sẽ bị giảm sút trên thị trường. Khi đã bị mất niềm tin thì ngân hàng khó có thể lấy lại hình ảnh ban đầu của mình.

- Trong lịch sử ngân hàng đã chứng thực, rất nhiều ngân hàng bị tác động của những tin đồn về việc chậm chễ trong khâu thanh toán dẫn tới làn sóng ồ ạt khách hàng tới rút tiền. Các ngân hàng nếu không chuẩn bị kịp thời hoặc không có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền quá lớn hoặc không có sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng Trung Ương thì có thể dẫn tới phá sụp đổ và có thể gây hiệu ứng lan truyền đặc trưng của hệ thống ngân hàng - ảnh hưởng tồi tệ một cách sâu rộng đến nền kinh tế.

Theo những phân tích ở trên, trong khi năng lực quản trị rủi ro tín dụng yếu kém nếu mở rộng tín dụng th́ ngân hàng chỉ ngày càng thua lỗ và có thể dẫn đến kết cục hết sức tồi tệ. Tuy nhiên, vì năng lực yếu kém dẫn đến việc hạn chế trong mở rộng tín dụng ngân hàng cũng có thể mất dần những khách hàng tốt, giảm thị phần. Do ngân hàng hoạt động dựa trên lợi thế kinh tế về quy mô nên đến một thời điểm nào đó ngân hàng có thể bị thua lỗ và cũng có nguy cơ phá sản. Do vậy, mở rộng năng lực quản trị rủi ro tín dụng là tiền đề cho việc tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

Nhìn nhận vấn đề này kỹ hơn, khi cấp tín dụng mức lãi suất về nguyên tắc phải đủ để trang trải các chi phí và thêm một phần lợi nhuận mong đợi. Trong chi phí có phần bù đắp rủi ro. Trong thị trường cạnh tranh như ngày nay, ngân hàng đánh giá chính xác và cấp những khoản tín dụng ít rủi ro thì lợi thế trong kinh doanh của ngân hàng sẽ tăng lên. Biểu hiện ở chỗ ngân hàng có thể giảm mức lãi suất để cạnh tranh với các ngân hàng khác hoặc thông qua mở rộng tín dụng ngân hàng có thể cung cấp thêm cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ khác của mình.

* Thứ hai nữa, có thể kể đến tác động của quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng.

- Như đã biết, lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp, khi phát sinh nợ quá hạn sẽ dẫn tới chi phí của doanh nghiệp tăng lên, gia tăng nguy cơ không trả được nợ cho ngân hàng, dẫn tới việc doanh nghiệp buộc phải phát mại tài sản thế chấp, và có thể bị phá sản.

Ngân hàng không thu được nợ của khách hàng là biểu hiện hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn, khách hàng muốn vay ngân hàng những lần sau đó sẽ gặp khó khăn. Đồng thời bạn hàng của khách hàng cũng do dự khi thiết lập quan hệ với họ. Các chủ nợ cũng dồn dập tới đòi nợ khách hàng. Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường bị giảm sút.

* Ở khía cạnh hiệu quả đầu tư xã hội

Rủi ro tín dụng xảy ra đồng nghĩa với khoản đầu tư của người vay tiền không có hiệu quả tức là không có lợi ích đầu tư của người vay tiền đối với ngân hàng và xã hội. Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có tính xã hội hoá cao, có nhiều mối quan hệ phức tạp với nhiều chủ thể. Khi một ngân hàng bị thua lỗ, phá sản sẽ gây tâm lý hoang mang lan rộng nhanh chóng khiến nhiều người khách hàng gửi tiền có thể rút tiền hàng loạt gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động ngân hàng, trường hợp xấu nhất có thể gây đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng. Theo thời gian nếu có khôi phục được cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn. Ở nước ta hiện nay, nếu một NHTM gặp khó khăn tài chính di rủi ro tín dụng xảy ra ngoài mong đợi, ngân hàng có thể nhận được sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước. Lúc này Ngân sách Nhà nước phải tăng chi cho khoản mục này và cắt giảm chi tiêu cho các khoản mục khác, sẽ làm ảnh hưởng tới mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Tóm lại, quản trị rủi ro tín dụng giúp ngân hàng vững vàng trong xử lý mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và lợi nhuận, qua đó tránh được thiệt hại và đem lại lợi ích cho bản thân và mọi đối tượng khác có liên quan đến hoạt động tín dụng. Giúp làm giảm tổn thất cho bản thân ngân hàng và nền kinh tế, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, tăng cường cạnh tranh, giúp tăng trưởng kinh tế.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 13/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí