Rủi Ro Tín Dụng Và Các Nhân Tố Dẫn Tới Rủi Ro Tín Dụng Trong Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại

chính không thể thiếu trong hệ thống tài chính quốc gia. Đồng thời khẳng định vai trò chủ yếu của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và đối với sự tồn tại và phát triển của bản thân các ngân hàng nói riêng.

* Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với bản thân các NHTM

Cấp tín dụng là một hoạt động chủ yếu của NHTM, đây là nguồn thu chủ yếu trong tổng nguồn thu của Ngân hàng, chiếm từ 60% – 70 %. Do mục tiêu sinh lời, việc thực hiện chức năng tập trung huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để tiến hành cho vay luôn được các Ngân hàng chú trọng. Việc duy trì và mở rộng tín dụng mang một ý nghĩa sống còn đối với các NHTM. Hoạt động này được thực hiện hiệu quả sẽ tạo điều kiện để ngân hàng đẩy mạnh hoạt động tập trung vốn, mở rộng việc thực hiện chức năng thanh toán. Do vậy, bên cạnh việc mở rộng hoạt động tín dụng các ngân hàng luôn quan tâm tới việc nâng cao chất lượng tín dụng. Có thể nói rằng, hoạt động tín dụng là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

* Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế

Thứ nhất, tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số vốn nhàn rỗi trong lưu

thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Tín dụng ngân hàng là trung gian để điền tiết nguồn vốn từ bộ phận nhàn rỗi đến bộ phận thiếu vốn với sự tương thích về số lượng một cách linh hoạt, giúp giảm số tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Trong cơ chế thị trường ai cũng muốn đồng tiền của mình sinh lời, do đó họ sẵn sàng cho ngân hàng vay để thu lợi. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần nâng cao thu nhập cho người gửi tiết kiệm.

Thứ hai, chính phủ sử dụng tín dụng ngân hàng như một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

Thông qua kiểm soát khối lượng tín dụng, định hướng đầu tư cùng với lãi suất tín dụng giúp chính phủ điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và hợp lý, kiềm chế lạm phát. Tín dụng ngân hàng vừa tập trung vốn đầu tư cho các ngành

kinh tế mũi nhọn, vừa tham gia vào các chương trình chính sách xã hội thực hiện kết hợp tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng

Trong mọi lĩnh vực sản xuất – kinh doanh - dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu từ tiền tệ (T) và kết thúc bằng T’. Ở đó, T’ = T+t. (T’>T) tạo điều kiện để tái mở rộng hoạt động. Trong chu kỳ này, tăng vòng quay vốn tiền tệ có tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn thực hiện điều đó, các chủ thể kinh doanh cần cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện quản lý, tìm kiếm thị trường mới. Đòi hỏi một lượng vốn lớn và kịp thời. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh cần phải tìm ra nhiều biện pháp sử dụng vốn hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn nhằm trả nợ vay tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi nếu không có thể dẫn tới nguy cơ phá sản. Thực hiện được điều này trong nền kinh tế thị trường là một cuộc cạnh tranh gay gắt và quyết liệt. Vì thế mà thúc đẩy sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế hàng hoá.

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong - 3

Thứ tư, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy kinh tế quan trọng.

Ngày nay, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang đựơc thúc đẩy mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong đó, vốn đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đựơc coi là hai lĩnh vực hợp tác thông dụng nhất giữa các nước. Nhưng thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào cũng có đủ vốn để hoạt động. Thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng là trợ thủ đắc lực, sẽ cung cấp vốn cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.

Như vậy, tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Để phát huy vai trò đó, các nước trên thế giới đã sử dụng tín dụng ngân hàng như một công cụ đắc lực để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là

một hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khó lường trước. Để tín dụng ngân hàng thực sự phát huy vai trò của mình, nghiên cứu rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là một yêu cầu bức thiết.

1.2 RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ DẪN TỚI RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.2.1 Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM

1.2.1.1 Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM

* Khái niệm

Hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn mà chúng ta khó có thể lường trước được. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất nhạy cảm và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu tác động của nhiều các nhân tố khác nhau như kinh tế chính trị, xã hội nên có thể gây ra những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. Thêm nữa, ngân hàng kinh doanh còn huy động vốn và cho vay ở rất nhiều các lĩnh vực dịch vụ khác nhau nên có thể nói rủi ro ngân hàng rất đa dạng. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tín dụng sẽ dẫn đến việc cạnh tranh lãi suất cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng. Như vậy, rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất khi ngân hàng hoạt động kém hiệu quả do hệ thống thông tin không đầy đủ, hoạt động có vấn đề hoặc hệ thống kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả. Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng nên có rất nhiều loại rủi ro khác nhau như: rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý…Trong đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn và phức tạp nhất, có thể gây tác động nặng nề đến các hoạt động khác, thậm chí có thể đe doạ tới sự tồn tại của các ngân hàng.

* Phân loại rủi ro

Rủi ro của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro la những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Rủi ro của ngân hàng gắn liền với giảm sút thu nhập ngoài dự kiến.

Phân chia rủi ro theo các loại tài sản bao gồm: Rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong cho thuê, rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.

Phân chia rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động – bao gồm: Rủi ro do người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả…

Phân chia rủi ro phổ biến nhất bao gồm:

+ Rủi ro hối đoái

Rủi ro hối đoái là khả nẵngảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy vậy, có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.

+ Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ có thể bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rui ro. Có một số ý kiến cho rằng theo quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động nói chung. Chính vì vậy mà khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.

+ Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng cả bên tài sản và nguồn vốn thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất, do đó nó thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của một ngân hàng do các biến động của lãi suất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng và nó có một số hình thức khác nhau như: rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro tương quan lãi suất…

+ Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các ngân hàng là huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Rủi ro thanh khoản xảy ra do các khoản huy động luôn phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Ví như, trong bất cú cuộc khủng hoảng nào người gửi tiền cũng sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản là khả năng tổn thất ngoài dự kiến cuả ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá hoặc nhỏ hơn khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.

+ Các rủi ro khác

Các loại rủi ro khác là khả năng cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, lỗi công nghệ…

1.2.1.2 Khái niệm và biểu hiện của rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM

* Khái niệm

Không phải tự nhiên mà nhà kinh tế học J.M.Keynes cho rằng “ Nếu bạn mắc nợ ngân hàng 100 bảng Anh, đó là mối lo của bạn. Nhưng đó là 1 triệu bảng Anh thì đó là mối lo của ngân hàng ”. Trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng tạm thời tách rời quyền sở hữu. Ở đây, quyền sở hữu những khoản cho vay không thuộc về ngân hàng mà thực chất thuộc về những người gửi tiền. Tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào chữ tín của người vay, bao hàm cả năng lực tài chính và sự sẵn sàng trả tiền của người vay hay không. Việc xác định chính xác khả năng trả nợ thực tế của khách hàng không phải là một vấn đề đơn giản. Vì vậy trong nghiệp vụ tín dụng mục đích ngân hàng là bên được đi vay hoàn vốn lại cả gốc và lãi đúng thời hạn đã thoả thuận.

Tín dụng ngân hàng có mặt trong các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, tham gia hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp, nền kinh tế. Trong hoạt động kinh doanh lại luôn có những kho khăn dự định ban đầu có thể không đạt được theo ý muốn, đó chính là sự xuất hiên các rủi ro. Do đó bất cứ rủi ro

xảy ra đối với doanh nghiệp nào, lĩnh vực nào cũng ít nhiều gây ra rủi ro cho ngân hàng.

Hoạt động tín dụng là hoạt động đặc trưng cho ngân hàng và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, do vậy rủi ro trong hoạt động tín dụng là đặc trưng nhất và dễ xảy ra nhất bởi lợi nhuận cao luôn đi kèm rủi ro lớn.

Theo quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ– NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN,rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.

Các ngân hàng coi rủi ro tín dụng là một tất yếu, không thể loại bỏ hoàn toàn ra khỏi hoạt động của mình. Họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại của nó và tìm mọi phương thức để có thể hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng. Đặc biệt trong bối cảnh cả thế giới đang tiến dần tới giai đoạn toàn cầu hoá, các hoạt động của ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú, các hoạt động tín dụng ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Trong bối cảnh đó, thiết lập một phương thức quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả được coi là trọng tâm của các ngân hàng. Mặt khác, các ngân hàng cũng cần có các biện pháp thật hữu hiệu để hạn chế rủi ro và đáp ứng được sự kiểm soát quốc tế, các định chuẩn quốc tế đề ra.

* Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng

Trong số các khoản vay, đôi khi các NHTM gặp phải một số khoản cho vay có vấn đề. Đó là những khoản vay mà trong đó thoả thuận hoàn trả có khả năng bị đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi. Nếu muốn tránh khỏi những thiệt hại bất hợp lý thì cán bộ tín dụng phải xác định khoản cho vay có vấn đề ngay lập tức, nếu không thì có thể không giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Các dấu hiệu này đôi khi không phải có thể nhận ra ngay trong một thời điểm mà phải sau một quá trình

quan sát và nghiên cứu. Có rất nhiều dấu hiệu để nhận biết khoản vay có vấn đề. Dưới đây là một số dấu hiệu rủi ro tín dụng:

+ Nhóm 1: Các dấu hiệu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng

- Các hoạt động cho vay:

* Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.

* Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn.

* Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.

- Trong quá trình hạch toán, các tài khoản của khách hàng có một số biểu hiện:

* Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.

* Sự giảm sút số dư tài khoản tiền gửi.

* Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động.

* Không có khả năng thanh toán nợ khi tới hạn.

- Phương thức tài chính:

* Giảm các khoản phải trả và tăng các khaỏan phải thu.

* Các hệ số thanh toán tiến triển theo chiều hướng xấu.

* Có dấu hiệu giảm vốn điều lệ.

+ Nhóm 2: Dấu hiệu liên quan tới việc quản lý khách hàng

- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành thay đổi liên tục, luôn bất đồng về quan điểm.

- Quản lý có tính gia đình.

- Các chi phí quản lý bất hợp lý.

+ Nhóm 3: Dấu hiệu liên quan tới vấn đề thương mại:

- Khó khăn trong phát triển sản phẩm,

- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.

- Cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.

+ Nhóm 4: Dấu hiệu liên quan tới xử lý thông tin kế toán- tài chính:

- Chậm chễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính

- Kết quả phân tích tài chính cho thấy:

* Khả năng tiến mặt giảm

* Số khách hàng nợ tăng nhanh, thời hạn thanh toán káo dài.

* Làm đẹp bảng cân đối kế toán bằng cách tạo sản phẩm vô hình.

- Các dấu hiệu phi tài chính: vấn đề về đạo đức, kho lưu trữ hàng hoá nhiều

nhưng lạc hậu, hư hỏng…


1.2.2 Các nhân tố dẫn đến rủi ro tín dụng

Có rất nhiều nhân tố dẫn đến rủi ro tín dụng:


1.2.2.1 Các nhân tố khách quan

Nhóm nhân tố này bao gồm các nhân tố là: môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường xã hội.

Môi trường kinh tế: Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chịu ảnh hưởng tác động trực tiếp của môi trường kinh tế - xã hội. Về phương diện tổng thể nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Khi nền kinh tế ổn định, quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiến hành bình thường, không bị ảnh hưởng của các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm khả năng vay nợ và trả nợ vay không bị biến động lớn. Ngược lại, một nền kinh tế bị suy thoái thì sức mua của người dân bị giảm sút, khả năng phát triển sản xuất kinh doanh hầu như không có, tất cả những điều đó tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng. Không chỉ giới hạn trong môi trường kinh tế của một quốc gia mà các biến động về kinh tế tài chính trên thế giới đều có sự tác động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là khi quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Môi trường pháp lý: Là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới rủi ro tín dụng. Đó là sự thiếu đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật, các biện pháp thi hành pháp luật và sự tuân thủ không nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia kinh doanh và các ngành có liên quan. Chính nhân tố môi trường này đã không đảm bảo tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 13/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí