Hướng Dẫn Tính Giá Giặt, Thêu, Đóng Hộp Sản Phẩm Tại Công Ty Tnhh May Vĩnh Phú.


Bảng 2.19: Hướng dẫn tính giá giặt, thêu, đóng hộp sản phẩm tại Công ty TNHH May Vĩnh Phú.

Công ty TNHH May Vĩnh Phú Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật

BẢNG HƯỚNG DẪN TÍNH GIÁ THUÊ NGOÀI

ĐỐI VỚI GIẶT, THÊU, ĐÓNG HỘP SẢN PHẨM ÁO SƠ MI


TT

Chi tiết

Đơn giá tính theo USD

Ghi chú bổ sung

I

Đơn giá giặt



1

Giá giặt thường

0,10


2

Giá giặt mềm

0,20


3

Giá giặt có enzym

0,25


II

Đơn giá thêu



1

Giá thêu dưới 2000 mũi

0,01/100 mũi


2

Giá thêu từ 2000 - 5000 mũi

0,01/200 mũi


3

Giá thêu trên 5000 mũi

0,01/400 mũi


III

Đơn giá hộp và đóng hộp



1

Đóng hàng có hộp (1 áo 1 hộp)

0,01


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 308 trang tài liệu này.

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam - 21


Ghi chú:

Trong trường hợp đặc biệt ngoài những phát sinh đã thống kê ở trên sẽ do Lãnh đạo Công ty quyết định giá.

Phú Thọ, ngày 15 tháng 7 năm 2010 Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật


(Nguồn: Phòng Kế hoạch Kỹ thuật - Công ty TNHH May Vĩnh Phú)

Chi phí sản xuất chung cố định bao gồm chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất, chi phí điện, nước, than,.. và các dịch vụ mua ngoài khác bằng tiền, trong đó đáng kể nhất là chi phí khấu hao tài sản cố định. Tài sản cố định phục vụ sản xuất trong doanh nghiệp may thường là nhà xưởng, hệ thống máy may công nghiệp, các máy chuyên dụng, hệ thống lò hơi, hệ thống làm mát nhà xưởng,… Nhìn chung, các tài sản này được trích khấu hao theo phương pháp đường thẳng với


khoảng thời gian trung bình từ năm đến bảy năm. Trong các tài liệu uớc tính chi phí và giá thành sản phẩm ở 55/63 doanh nghiệp được điều tra, không có số liệu ước tính về chi phí khấu hao tài sản cố định và các chi phí chung cố định khác trong cơ cấu giá thành sản phẩm gia công. Nó chỉ hiện diện trong giá thành sản phẩm thực tế khi kế toán phân bổ các chi phí sản xuất chung, trong đó, tiêu thức phổ biến được sử dụng để phân bổ là theo doanh thu của đơn hàng gia công hoặc theo chi phí nhân công trực tiếp. Như vậy, việc ước tính chưa bao hàm đầy đủ các yếu tố chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm, gây khó khăn trong xác định và đánh giá hiệu quả các đơn hàng chính xác.

Thứ hai, kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm

Công việc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm do bộ phận kế toán của doanh nghiệp chịu trách nhiệm thực hiện. Một trong những nhiệm vụ cơ bản mà kế toán phải thực hiện là tập hợp đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất thực tế phát sinh theo đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành đúng đắn theo từng đối tượng tính giá thành. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp may thường theo từng đơn hàng gia công, trong đó, các chi phí như nguyên vật liệu và nhân công có thể theo dõi và tập hợp trực tiếp theo từng đơn hàng cụ thể, còn chi phí sản xuất chung cần phải phân bổ theo tiêu thức lựa chọn thích hợp. Xuất phát từ đặc điểm này, Tài khoản 621 “Chi phí nhân công trực tiếp”, Tài khoản 622 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” được mở chi tiết theo từng đơn hàng hoặc mã hàng, còn Tài khoản 627 “Chi phí sản xuất chung” được mở chi tiết đến từng yếu tố chi phí nhằm tập hợp chi phí phát sinh chung trong phạm vi toàn phân xưởng, sau đó được phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí. Căn cứ để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chứng từ: phiếu xuất kho nguyên phụ liệu để sản xuất sản phẩm, bảng tổng hợp nhập xuất tồn theo từng loại nguyên vật liệu, báo cáo nguyên vật liệu tiêu hao thực tế,… Chi phí nhân công trực tiếp được hạch toán dựa trên cơ sở bảng chấm công, phiếu xác nhận sản phẩm hoàn thành, biên bản kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm nhập kho,


bảng thanh toán tiền lương và các khoản trích theo lương của lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm,…Cuối cùng, căn cứ vào các chứng từ liên quan, kế toán thực hiện tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung trong phạm vi toàn phân xưởng theo từng mã hàng hoặc đơn hàng để tính giá thành sản phẩm.

Thứ ba, kiểm tra kết quả báo cáo từ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm

Bước công việc này thể hiện rõ sự kiểm soát của nhà quản lý đối với kết quả công việc do bộ phận kế toán báo cáo. Về thực chất, khi tập hợp chứng từ có liên quan để lên tài liệu tổng hợp về các khoản mục chi phí, thủ tục bắt buộc kế toán thực hiện là cân đối và đối chiếu để phát hiện các sai phạm có thể xảy ra. Các tài liệu sử dụng để cân đối và đối chiếu được cung cấp từ các bộ phận khác có liên quan với mục đích kiểm tra chéo nhằm đảm bảo tính trung thực và hợp lý của số liệu tính toán. Cụ thể, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cần được cân đối và đối chiếu với định mức tiêu hao do bộ phận kế hoạch và kỹ thuật cung cấp, và số liệu thống kê từ kho hàng. Chi phí nhân công trực tiếp được cân đối và đối chiếu với định mức tiêu hao và đơn giá gia công tiểu tác sản phẩm, bảng chấm công được kiểm soát bởi bộ phận nhân sự, phiếu xác nhận sản phẩm hoàn thành và biên bản kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm nhập kho từ bộ phận KCS (kiểm soát chất lượng sản phẩm) và kho hàng. Để kiểm soát có hiệu quả và chính xác, đối tượng được cân đối và đối chiếu cần theo từng đơn hàng hoặc mã hàng cụ thể. Sau khi bộ phận kế toán kết hợp với các bộ phận khác có liên quan để đối chiếu và cân đối số liệu, kết quả tính toán cuối cùng được báo cáo lên lãnh đạo doanh nghiệp để phê chuẩn.

Thông qua điều tra, 25/63 doanh nghiệp có kết quả điều tra đã ban hành thủ tục kiểm soát chính thức bằng văn bản về việc cân đối và đối chiếu số liệu giữa bộ phận kế toán và bộ phận khác có liên quan, tuy nhiên, thực tế phỏng vấn và quan sát cho thấy 18/63 doanh nghiệp, việc cân đối và đối chiếu này mới thực sự được thực hiện, đem lại kết quả tin cậy và đúng đắn. Rõ ràng, giữa thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát luôn luôn có khoảng cách nhất định.


Thứ tư, đánh giá hoặc phân tích chênh lệch giữa chi phí, giá thành dự toán với chi phí, giá thành thực tế nhằm cung cấp thông tin về hiệu quả thực hiện các đơn hàng

Nhu cầu thông tin dành cho quản lý không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đảm bảo độ tin cậy và đầy đủ của các số liệu chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, mà còn thể hiện ở chiều sâu phân tích thông tin, giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp có được bức tranh rõ ràng và chi tiết nhất về tính hiệu quả của hoạt động sản xuất trong thực hiện các đơn hàng. Để có được những thông tin hữu ích, lãnh đạo doanh nghiệp cần ban hành quy định rõ ràng về trách nhiệm thu thập các loại thông tin cụ thể, cách thức xử lý, phân tích và mức độ báo cáo thông tin cho một bộ phận chức năng cụ thể trong doanh nghiệp thực hiện. Nếu tổ chức kế toán quản trị tại doanh nghiệp có hiệu quả, chức năng này thuộc về bộ phận kế toán. Tuy nhiên, kế toán quản trị tại phần lớn các doanh nghiệp may Việt Nam hiện nay đều chưa được quan tâm xây dựng hoặc nếu có, cũng chưa phát huy tốt tác dụng của nó, vì vậy, công tác phân tích số liệu về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm nhằm đánh giá tính hiệu quả trong sản xuất chưa được coi trọng.

Việc đánh giá hiệu quả theo mặt hàng trong các doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tiêu chí khả năng sản xuất, cụ thể là đánh giá năng suất lao động chi tiết đến từng mã hàng. Năng suất lao động theo từng mã hàng được sắp xếp theo thứ tự giảm dần cung cấp thông tin từ đơn hàng hiệu quả cao nhất đến đơn hàng hiệu quả thấp nhất, giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết định nên duy trì và tiếp tục sản xuất những mã hàng nào đồng thời không nên thực hiện những mã hàng nào. Chú trọng đến đánh giá tiêu chí năng suất lao động hoàn toàn phù hợp với doanh nghiệp may gia công, khi nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, bộ phận chức năng có nhiệm vụ lập và báo cáo kết quả đánh giá ở trong trường hợp này là bộ phận lập kế hoạch, hơn nữa mới chỉ so sánh các đơn hàng theo năng suất lao động cao hay thấp mà không phải là chỉ tiêu kết quả lợi nhuận của từng đơn hàng cho thấy, việc đánh giá và phân tích hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp may mới chỉ ở mức độ đơn giản. Nhận định này phù hợp với kết quả điều tra. 31/63 doanh nghiệp được điều tra chưa quan tâm đến việc đánh giá hiệu quả hoạt động chi tiết mà mới chỉ chú trọng đến số liệu lợi nhuận tổng


thể trình bày trên Báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp theo quý hoặc năm. Việc phân tích ở mức độ sâu, chi tiết hiệu quả sản xuất từng mã, đơn hàng chỉ được một số ít các doanh nghiệp thực hiện, nhưng mới chỉ dừng ở tiêu chí khả năng sản xuất (sức sản xuất), chưa phân tích các tiêu chí về mức tiết kiệm hoặc sức sinh lợi.

Về kiểm soát chi phí thiệt hại trong sản xuất do sản phẩm không phù hợp

Cùng với bước tiến của xã hội văn minh, khách hàng ngày càng có yêu cầu cao hơn đối với chất lượng sản phẩm. Ngoài đáp ứng nhu cầu tối thiểu về ăn mặc, ngày nay, sản phẩm may cần thoả mãn những yêu cầu cao hơn từ phía khách hàng ở các yếu tố thẩm mỹ, xu hướng thời trang, kiểu dáng, màu sắc, chất lượng nguyên vật liệu, đường kim mũi chỉ,... Hiện nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp may Việt Nam chủ yếu là Mỹ, Châu Âu, hay Nhật Bản với các khách hàng nổi tiếng khó tính, cầu toàn nên yêu cầu đáp ứng chất lượng của sản phẩm luôn ở mức độ cao. Vì vậy, kiểm soát sản phẩm không phù hợp được coi là một trong những nội dung kiểm soát quan trọng nhất đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp may phải quan tâm, chú ý.

Kiểm soát sản phẩm không phù hợp về thực chất thuộc lĩnh vực kỹ thuật nhưng có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp kể cả ở chỉ tiêu chi phí và thu nhập. Trong sản xuất, khi sản phẩm bị sai, hỏng, doanh nghiệp phải tiêu tốn các chi phí để khắc phục sửa chữa. Trong bán hàng, doanh thu của doanh nghiệp bị sụt giảm do tiêu thụ chậm hoặc không tiêu thụ được vì sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu và sự mong đợi từ phía khách hàng, đồng thời gây ứ đọng vốn do lượng hàng tồn cao. Chi phí tăng lên, doanh thu giảm xuống khiến lợi nhuận của doanh nghiệp ảnh hưởng đáng kể theo chiều hướng tiêu cực.

Việc kiểm tra sản phẩm không phù hợp được thực hiện theo từng công đoạn sản xuất. Nếu sản phẩm không đạt thì yêu cầu tổ sản xuất sửa chữa hoặc làm lại nếu có thể sửa chữa. Trong trường hợp không thể sửa chữa hoặc chi phí sữa chữa quá tốn kém phải đi đến quyết định hạ cấp hoặc loại bỏ. Quy trình kiểm soát sản phẩm không phù hợp được minh hoạ qua Sơ đồ 2.6.

Trách nhiệm chính và chủ yếu trong kiểm soát sản phẩm không phù hợp thuộc về bộ phận KCS của doanh nghiệp. Bộ phận này có tác dụng phát hiện nhanh chóng, kịp thời các lỗi không đạt yêu cầu của sản phẩm và báo cáo cho nhà quản lý


để có định hướng giải quyết, nhằm hạn chế tối thiểu những thiết hại mà doanh nghiệp phải gánh chịu khi không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng từ phía khách hàng. Tuy nhiên, ở một số doanh nghiệp thuộc diện điều tra có sự quá tải về công việc đối với nhân viên KCS do lực lượng lao động này quá mỏng. Thông thường, công thức hợp lý mà các doanh nghiệp vận dụng là cứ 10 công nhân trực tiếp sản xuất thì có 1 nhân viên KCS, tuy nhiên, ở một số doanh nghiệp, tác giả nhận thấy tỷ lệ này là 15/1 thậm chí là 20/1 hoặc cao hơn thế.

Hạ cấp Loại bỏ


Sản phẩm

Đạt hoặc khách hàng nhân nhượng

Kiểm soát

Tiếp tục công đoạn sau hoặc nhập kho

Không đạt

Sửa chữa Làm lại


Sơ đồ 2.6: Quy trình kiểm soát sản phẩm không phù hợp

(Nguồn: Khiếu Thiện Thuật (2002) Phương hướng và những điều kiện mở rộng việc áp dụng Hệ thống Quản lý chất lượng ISO 9000 trong các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ

kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân)

Sản phẩm hỏng trong doanh nghiệp xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, kể cả lý do chủ quan và khách quan, có thể khắc phục được hoặc không thể khắc phục được. Sản phẩm hỏng có thể do người lao động không có các kỹ năng cần thiết để hoàn thành tốt các công đoạn sản xuất. Trong trường hợp này, nguyên nhân chính thuộc về tay nghề người lao động, vì vậy, việc khắc phục sự cố bằng việc phát hiện kịp thời sản phẩm sai hỏng để sửa chữa chỉ là biện pháp trước mắt. Về lâu dài, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp thích hợp và bền vững hơn như đào tạo để nâng cao tay nghề người lao động hoặc rà soát kỹ khâu tuyển dụng nhằm hạn chế tuyển lao động tay nghề kém. Sản phẩm hỏng cũng có thể bắt nguồn từ nguyên vật liệu đầu vào chất lượng kém (vải không đạt chất lượng so với yêu cầu kỹ thuật,…). Trong trường hợp này, khâu đặt


hàng và lựa chọn nhà cung cấp có vấn đề do vậy, trách nhiệm không thuộc về bộ phận sản xuất mà phải là bộ phận cung ứng trong doanh nghiệp. Với những đơn hàng gia công mà khách hàng chịu trách nhiệm cung cấp vải và phụ liệu sản xuất các sản phẩm may mặc, lý do sản phẩm hỏng do nguyên vật liệu kém chất lượng không thuộc lỗi của nhà sản xuất, doanh nghiệp có thể từ chối không sửa chữa hoặc tái chế hàng. Thông qua những phân tích trên cho thấy, nếu doanh nghiệp chú trọng vào việc phát hiện nguyên nhân gây ra sản phẩm sai hỏng một cách đúng đắn thì việc xác định các cách thức phù hợp để khắc phục chúng là hợp lý. Quan trọng hơn doanh nghiệp có thể phòng ngừa sự tái diễn những sự cố này một cách hiệu quả lâu dài. Tuy nhiên, 13/63 doanh nghiệp tồn tại tình trạng không tìm được nguyên nhân gây ra sản phẩm sai hỏng kịp thời, vì vậy không có biện pháp thích hợp để khắc phục.

Việc nhận biết những nguy cơ tiềm ẩn làm xuất hiện sản phẩm sai hỏng trong quá trình sản xuất cũng thể hiện ý thức thực hiện các hành động phòng ngừa thích hợp của doanh nghiệp. Những nguy cơ này có thể tiềm ẩn trong toàn bộ các quá trình nội bộ của doanh nghiệp, các yếu tố lao động, tư liệu lao động, vì vậy, các biện pháp khắc phục và phòng ngừa sản phẩm sai, hỏng trong doanh nghiệp rất quan trọng. Tuy vậy, có 23/63 doanh nghiệp không quan tâm đến thực hiện các biện pháp thích hợp trong phòng ngừa giảm thiểu thiệt hại về chi phí do sản phẩm hỏng.

Trong quá trình sản xuất doanh nghiệp cần thiết phải thực hiện việc đo lường, phân tích thiệt hại do sản phẩm không phù hợp ở các giai đoạn thích hợp trong quá trình tạo sản phẩm. Tuy nhiên trên thực tế ở các doanh nghiệp may mặc Việt Nam hiện nay công tác đo lường và phân tích chưa được chú trọng để kiểm soát nhằm hạn chế chi phí thiệt hại từ sản phẩm không phù hợp. Ngay cả các doanh nghiệp như May 10, Đức Giang, Việt Tiến, Nhà Bè,… mặc dù đã thiết kế các thủ tục đo lường và phân tích, nhưng việc xác định các mục tiêu làm cơ sở để triển khai các tiêu chí và thiết lập các tiêu chuẩn trong đánh giá còn chung chung, chưa rõ ràng. Hệ thống các tiêu chí đo lường chưa được đề cập cụ thể về nội dung, cách thức tính toán các chỉ tiêu chưa được xây dựng. Chính vì vậy, nhà quản lý khó có thể đánh giá thực sự đầy đủ và hệ thống về tính hiệu lực, hiệu quả trong kiểm soát chi phí thiệt hại do sản phẩm không phù hợp.


Về kiểm soát thanh toán với khách hàng

Kết quả điều tra cho thấy, kiểm soát thanh toán với khách hàng được coi là nội dung công việc cần phải thực hiện tốt nhằm đảm bảo đúng quyền lợi và tài sản của doanh nghiệp. Ý nghĩa quan trọng trong kiểm soát hoạt động này không thua kém bất cứ nội dung nào như kiểm soát thực hiện kế hoạch, tài sản, kiểm soát mua hàng, chi phí sản xuất,...Hoạt động kinh doanh chính trong các doanh nghiệp may Việt Nam là gia công và xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản,... nên thanh toán với khách hàng trong các doanh nghiệp này thể hiện đầy đủ những đặc trưng cơ bản của thanh toán quốc tế.

Khách hàng của doanh nghiệp may Việt Nam: Trên thực tế, hợp đồng gia công có thể được ký kết giữa một bên là doanh nghiệp may mặc với bên kia là nhà nhập khẩu trực tiếp, hoặc trung gian thương mại, hoặc bên uỷ thác gia công (thường là một doanh nghiệp may khác tại Việt Nam được coi là doanh nghiệp hạt nhân với vệ tinh của họ). Cho dù đối tác kinh doanh khác nhau, nhưng cuối cùng, nguồn tiền hàng phải chuyển trả cho doanh nghiệp nhận gia công bao giờ cũng xuất phát từ nước ngoài. Tuy nhiên, mức độ rủi ro và loại rủi ro trong thanh toán có sự khác biệt phụ thuộc vào bản chất của từng phương thức thanh toán được thoả thuận giữa hai bên ký hợp đồng.

Lợi ích của doanh nghiệp trong trường hợp đối tác ký hợp đồng là nhà nhập khẩu trực tiếp thể hiện ở việc doanh nghiệp có thể thoả thuận với khách hàng mức giá gia công cao do không phải tốn kém chi phí trung gian, số lượng hàng cho từng đơn hàng lớn, nguồn hàng ổn định tạo điều kiện đảm bảo năng suất lao động. Tuy vậy, để có thể ký hợp đồng với nhà nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải hội tụ nhiều điều kiện khác nhau nhằm đáp ứng các yêu cầu khắt khe trong sản xuất sản phẩm như: diện tích nhà xưởng lớn; số lượng lao động nhiều; máy móc thiết bị hiện đại, được đầu tư đầy đủ các hạng mục và quan trọng nhất là việc doanh nghiệp đã triển khai áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến. Các khách hàng EU, Mỹ rất quan tâm đến việc xây dựng và vận hành các hệ thống quản lý ISO (về chất lượng, môi trường), trách nhiệm xã hội, và những yêu cầu khác tại nhà máy của các đối tác của họ. Họ cũng thường xuyên duy trì sự kiểm tra giám sát thường xuyên hoặc định kỳ trên thực tế với doanh nghiệp (ví dụ: định kỳ 6 tháng/lần kiểm tra các yêu cầu về

Xem tất cả 308 trang.

Ngày đăng: 20/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí