Giá trị và vị trí tập thơ Việt Bắc trong hành trình thơ Tố Hữu - 6


Nếu cuộc sống cực nhọc trước kia đè nặng lên con người và tâm hồn dân tộc, thì bây giờ ý thức vì Tổ quốc mà vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Họ sẵn sàng hy sinh tất cả, chính điều đó tạo nên vẻ đẹp riêng của anh bộ đội trên đường lên Tây Bắc:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo.

( Lên Tây Bắc, 1948 )

Cái đẹp của anh bộ đội trong tư thế oai vệ, được nhìn qua cặp mắt của bà mẹ nghèo:

Bộ nó rõ oai Vai thì đeo súng

Ngực chéo hai quai Áo thì thắt bụng.

Đầu nó đội mũ Có cái sao vàng Trước nó lam lũ

Bây giờ thấy sang!

( Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Đi tới đâu," Người lính trường chinh áo mỏng manh" ấy cũng mang lại nguồn vui cho nhân dân tới đó." Mỗi bước vàng theo đồng lúa chín- Lửa vui từng mái nứa tươi xanh"... Quân thù bị xua đuổi, cuộc sống lại yên vui:

Anh về cối lại vang rừng

Giá trị và vị trí tập thơ Việt Bắc trong hành trình thơ Tố Hữu - 6

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân Anh về sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca.


( Lên Tây Bắc, 1948 )


Nhưng vì ở nơi xa kia, giặc còn đang đốt phá làng mạc, gieo rắc tang thương, nên anh lại phải ra đi, khiến bà con ngậm ngùi lưu luyến :

Nhưng rồi khói từ xa gió thổi Núi kêu anh bộ đội lên đường.

( Lên Tây bắc, 1948 )

Người cách mạng không có giận ghét gì hơn giận ghét địch .Tố Hữu đã tả cái căm thù nét đặc trưng của một người "lính cụ Hồ" khi nghe bà mẹ kể lại tội ác của quân địch:

Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi: "Mé ơi đừng khóc

Nước độc lập rồi !"

(Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

"Cặp mắt đỏ nọc ấy" còn có tác dụng góp vào việc nâng cao ý chí chiến đấu không ngừng, không mỏi mệt của người chiến sĩ, và bằng mọi giá phải tiêu diệt hết quân xâm lược. Cái căm thù ấy nổi bật trong lời của người chiến sĩ quyết tâm tiêu diệt giặc, bằng một lời thơ thật mạnh và rất" bộ đội":

Chúng bay chui xuống đất Chúng bay chạy đằng trời Trời không của chúng bay Đạn ta rào lưới sắt!

Đất không của chúng bay Đai thép ta thắt chặt!

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Người lính- anh bộ đội cụ Hổ trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ thù, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ. Nhưng tình cảm người bộ đội trong thơ Tố Hữu không phải máy móc, một chiều chỉ biết đạn lửa chiến trường, mà cũng da diết nhớ nhà, nhớ


làng mạc, nhớ tất cả những cái gì làm nên cuộc sống cần cù, giản dị của nông thôn Việt Nam, nơi anh và những người thân đã sinh ra và lớn lên, với biết bao kỷ niệm thiết tha:

Chắc có lúc lòng anh Nhớ nhà anh nhớ lắm Ôi người bạn hiền lành Mắt nhìn xa đăm đắm...

( Cá nước, 1947 )

Tố Hữu thấu hiểu nỗi lòng người chiến sĩ. Khi đi sâu vào tình cảm của người "nông dân mặc áo lính", đi sâu vào cái nguồn bồi đắp tinh thần dồi dào, vô tận của người chiến sĩ, cái tình gửi về hậu phương, nơi chôn nhau cắt rốn. Ở đó có người mẹ già tóc bạc hoa râm, thì câu thơ trở nên thắm thiết, ấm cúng lạ lùng. Không phải thơ Tố Hữu nữa mà là nỗi lòng nhớ thương của người chiến sĩ đang thánh thót. Tình cảm đó diễn ra sâu sắc trong bài Bầm ơi! chứa đựng tình yêu gia đình, yêu đồng chí, yêu nước đã quyện lấy nhau. Đó chính là tình cảm sâu sắc, cao quý của người chiến sĩ Việt Nam, đã được nhà thơ nâng niu, thấu hiểu:

Bầm ơi có rét không bầm ?

Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu !

( Bầm ơi, 1948 )

Những câu thơ thấu tận nhân tình, thật là thấm thía, có lẽ chưa ai viết được như Tố Hữu. Những câu thơ chảy nước mắt, cái nước mắt không bi thảm, mà là


cái nước mắt sung sướng của tâm hồn khi được nghệ thuật động tới chỗ cao sâu. Cả bài thơ đi vào lòng người và ở luôn trong đó như một dòng suối ngọt ngào. Trên nguồn mạch tình cảm ấy bài Bầm ơi ! thật xứng đáng với tình mẹ con muôn thuở.

Viết về tình cảm của anh bộ đội dành cho mẹ, cho những bà bủ, bà bầm, tiếng thơ của nhà thơ Lê Đức Thọ cũng thật mến thương, nhưng ở đây là nỗi nhớ một bà mẹ bên một quán nghỉ chân dọc đường kháng chiến" miếng trầu bát nước tiễn đưa con" luôn sống mãi trong hoài niệm tác giả:

Hôm nay nhớ mảnh lòng vàng Nhớ người mẹ với muôn vàn yêu thương.

( Người mẹ )

Anh bộ đội đối với mẹ già thì hiền lành, thủ thỉ như thế. Nhưng đó chỉ là một góc lòng của anh, một khía cạnh của con người anh. Khi ở chiến trường đối diện với quân giặc thì hình ảnh anh bộ đội càng nổi bật trong những hy sinh cao cả:

Những đồng chí thân làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai

Băng mình qua núi thép Ào ào vũ bão,

Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.

Những bàn tay xẻ núi lăn bom

Nhất định mở đường cho xe ta tiến lên chiến trường tiếp viện

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Ý chí quyết chiến quyết thắng, nghị lực và tài trí của cả dân tộc, biết bao tấm gương kiên cường, anh dũng của quân và dân ta, của những ai có tên hoặc


không tên, cuối cùng đã giành được thắng lợi quyết định làm rạng rỡ cho đất nước, đưa Tổ quốc lên đỉnh vinh quang chói lọi:

Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực

Tên đất nước, như huân chương trên ngực Dân tộc ta, dân tộc anh hùng !

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954 )

Từ những người chiến sĩ chân đất, đầu trần những năm đầu chống Pháp, đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, người chiến sĩ" bộ đội cụ Hồ" tiếp tục được Tố Hữu miêu tả là con người mang vẻ đẹp thần thoại:

Anh đi, xuôi ngược tung hoành Bước dài như gió, lay thành chuyển non

Mái chéo một chiếc xuồng con Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương !

(Tiếng hát sang xuân, 1965)

Những vần thơ rất gợi cảm với những liên tưởng sáng tạo:

Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành

Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh Mà xông xáo, mà tung hoành, ngang dọc

Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả Lầu năm góc !

(Bài ca xuân 1968)

Những anh hùng trong thời đại chống Mỹ cứu nước, cũng được nhà thơ xây dựng từ những con người có thật trong đời sống. Nhưng ở họ mang vẻ đẹp tượng trưng cho một thời đại, tiêu biểu như Nguyễn Văn Trỗi hoặc Mẹ Suốt, bà mẹ Việt Nam anh hùng trong những năm chống Mỹ. Tố Hữu đã từ cái riêng của những cuộc đời cụ thể, khái quát lên thành cái chung của cả một lớp người, một thế hệ.


Trở lại anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân cầm súng, thật thà, chất phác, giản dị cả trong lời nói, cử chỉ và trong tư thế. Nhà thơ viết về họ với bản chất vốn có, mà vẫn tiềm tàng ẩn chứa những nét đẹp đại diện cho thời đại. Những con người kháng chiến và hiền lành ấy tiêu biểu cho toàn thể nhân dân lao động Việt Nam căm thù trước tội ác của giặc, đoàn kết yêu thương nhau trong một mối tình "cá nước", ra sức chiến đấu, bảo vệ cuộc sống, bảo vệ quê hương. Họ là những người nông dân bình dị mà làm nên lịch sử vẻ vang cho dân tộc.

2. Đặc trưng của chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa là ai cũng sẵn sàng ra trận. Trẻ em cũng ra trận, cũng biết đảm nhận những công việc thích hợp nhất với lứa tuổi mình. Lượm là hình ảnh được ghi nhận đầu tiên về em bé liên lạc trong thơ kháng chiến. Tâm hồn em hồn nhiên, nhưng lòng em thấm sâu tình yêu nước, em là những chú" đồng chí nhỏ" làm nhiệm vụ giao thông vượt qua mặt trận, không sợ đạn của giặc, không sợ hiểm nghèo.

Tố Hữu yêu chú bé liên lạc, điển hình của những con cháu trung dũng của Bác Hồ. Ngay trong những nét phác tả chú bé ấy ta đã thấy thật mến yêu:

Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh...


(Lượm, 1947)

Chú bé làm công tác liên lạc, vai đeo xắc, đầu đội mũ bộ đội, vẫn trẻ con trong bước đi nhảy nhót của tuổi nhỏ, xa nhà nhưng em không thấy sợ, lại thấy" ở đồn Mang Cá. Thích hơn ở nhà". Đó chính là niềm vui được ở trong đoàn thể, được sống bên cạnh các chú bộ đội, các chú cán bộ, được góp một phần nhỏ bé của mình cho cách mạng. Tố Hữu đã miêu tả em Lượm như một đồng chí nhỏ:


Thôi chào đồng chí ! Cháu đi xa dần...

(Lượm, 1949)

Tố Hữu không hề" nâng cao" em lên thành người chiến sĩ cách mạng như trong Từ ấy:

Em mạnh dạn chống bất công, tàn ác. Không cầu xin, không cất tiếng kêu ca.

( Hồn chiến sĩ, 1938)

Em Lượm trong Việt Bắc vẫn cứ là trẻ con như thường. Em đi kháng chiến với một tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, nhí nhảnh là vậy, thế mà những viên đạn kẻ thù đã cướp đi sự sống của em. Nhà thơ đã dành cho em một lòng thương yêu đặc biệt. Khi em ngã xuống, không ai quên được chú Lượm của Tố Hữu, không ai không thắt lòng khi Tố Hữu hạ xuống hai chữ:

Ra thế Lượm ơi !

( Lượm, 1949)

Kháng chiến có biết bao tấm gương hy sinh của những em nhỏ anh hùng như thế. Còn gì xúc động hơn cảnh ấy nữa. Dường như nhà thơ của chúng ta đã đau nhói tận tim và lặng đi không nói được khi biết tin em ngã xuống:

Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi ! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi !

( Lượm, 1949)

Lượm, em bé giao thông anh dũng đã hy sinh vì nhiệm vụ. Thi sĩ lặng người lại trước" một dòng máu tươi", và hình ảnh" chú bé loắt choắt, cái xắc xinh xinh" cứ nhói mãi trong lòng chúng ta. Lượm đã hy sinh, nhưng hình ảnh của em thì còn lưu mãi trên đồng đất quê hương:


Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng.

( Lượm, 1949)

Đó là sự sống không tắt của Lượm, của cả một lớp thiếu nhi tham gia kháng chiến ngay từ những ngày đầu cả đất nước lên đường vào trận, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ''. Cũng đồng thời là sự thể hiện sức sống của văn thơ, khi bằng sức mạnh của cảm xúc và ngôn từ, Tố Hữu đã làm cho một hình ảnh Lượm cá biệt bỗng sống hẳn lên và mang trong nó giá trị phổ quát, và nói lên được phẩm chất và gương mặt của cả một thế hệ.

Nói tới các em bé liên lạc, nhiều nhà thơ cũng đã có những vần thơ thật xúc động. Lê Đức Thọ cũng dành tình cảm mến yêu cho một em bé liên lạc, nhưng ở trong một hoàn cảnh khác không hẳn như em Lượm:

Đêm nay gió táp mưa xa Mái lều xơ xác dăm ba lá gồi

Gió lùa chi mấy gió ơi

Em đi trốn gió lại ngồi bên anh.

( Em liên lạc )

Viết về các em nhỏ, từ tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đã có những vần thơ về các em, lời thơ có khi nghẹn ngào như muốn khóc:

Con chim non không đợi chờ cánh mọc Cơ khổ em mới ngần ấy tuổi đầu!

( Hồn chiến sĩ, 1938 )

Trong kháng chiến cũng sớm có thơ của các em. Em Nguyễn Bá Dậu, thiếu sinh quân, nhân ngày sinh nhật Bác đã làm một bài thơ gửi đến Bác. Cả bài

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 18/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí