hàng quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu, rủi ro thanh khoản luôn thường trực khi phải phụ thuộc vào các ngân hàng lớn về nguồn vốn. Tình trạng sẽ trầm trọng hơn khi những nhà đầu tư nước ngoài lo ngại rủi ro và rút vốn về nước (do nền kinh tế đã hội nhập vào kinh tế quốc tế, sự di chuyển của các dòng vốn sẽ diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn). Điều này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng thanh khoản, khủng hoảng tiền tệ, và thậm chí là sụp đổ hệ thống tài chính ngân hàng nếu không có biện pháp hỗ trợ kịp thời từ phía NHTW.
Thứ hai, đối với công cụ chiết khấu.
NHTW có thể sử dụng lãi suất chiết khấu để tác động tới chi phí vốn của các ngân hàng và qua đó điều tiết mặt bằng lãi suất của nền kinh tế. Một trong những mục tiêu về tỷ giá khi một quốc gia hội nhập vào kinh tế thế giới là khuyến khích hoạt động xuất khẩu, điều chỉnh cán cân thương mại theo hướng tích cực. NHTW có thể giảm lãi suất chiết khấu để giảm mặt bằng lãi suất trong nước so với thế giới, làm tỷ giá tăng (tức nội tệ giảm giá) và khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như độ co giãn của xuất khẩu với tỷ giá, mức độ cạnh tranh của hàng hoá trong nước với nước ngoài, diễn biến lạm phát của nền kinh tế, chính sách thương mại như thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp…
Việc quy định các khoản vay được phép tái cấp vốn tại NHTW có thể giúp NHTW điều chỉnh lại cơ cấu tín dụng cho phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cạnh tranh sẽ tăng lên khi một quốc gia gia nhập vào kinh tế thế giới, và mỗi quốc gia phải có chiến lược điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế và các ngành kinh tế trọng tâm để tạo ra nền tảng vững chắc cho kinh tế trong nước. Trong trường hợp, Chính phủ và NHTW muốn tạo điều kiện cho ngành khai thác và chế biến thuỷ sản phát triển, mức lãi suất tái cấp vốn ưu tiên và quy định về các khoản tín dụng được vay tái cấp vốn tại NHTW sẽ khuyến khích hệ thống ngân hàng điều chỉnh cơ cấu tín dụng tập trung hơn vào ngành này.
Bên cạnh đó, công cụ chiết khấu có thể được NHTW sử dụng để tăng lượng tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính khi tiền được bơm trực tiếp và ngay lập tức tới các ngân hàng đang cần vốn nhất. Nhu cầu này hoàn toàn có thể xảy ra khi hội nhập kinh tế quốc tế dẫn tới các cú sốc tiêu cực tới sự ổn định và an toàn của hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Khi một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế, công cụ nghiệp vụ thị trường mở trên thành một công cụ chủ yếu và hữu dụng để NHTW điều tiết lượng vốn khả dụng, cung tiền và mặt bằng lãi suất của nền kinh tế. Đặc điểm này bắt nguồn từ sự linh hoạt, chính xác và có tác động tức thì tới lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng của công cụ này. Khi luồng ngoại tệ từ bên ngoài đổ vào nền kinh tế thông qua các hoạt động đầu tư (có thể là đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp), NHTW thường có xu hướng mua lại ngoại tệ để gia tăng dự trữ ngoại hối và hút lượng ngoại tệ từ hệ thống ngân hàng để tránh tình trạng đầu cơ và đô la hoá. Hoạt động này sẽ dẫn tới lượng cung tiền nội tệ trong hệ thống ngân hàng và sau đó là nền kinh tế tăng lên nhanh chóng, tiềm ẩn lạm phát cao trong tương lai. Lúc này, khả năng can thiệp trung hoà thông qua việc bán các giấy tờ có giá như tín phiếu NHTW, tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Chính phủ, các thương phiếu và nhiều loại giấy tờ có giá khác sẽ hạn chế được những tác động không mong muốn của việc mua vào ngoại tệ của NHTW. Ngược lại, khi các nhà đầu tư ngoại rút vốn, hệ thống ngân hàng có thể không đủ ngoại tệ để đáp ứng, NHTW có thể bán ngoại tệ lại cho các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư và đi kèm là tăng thanh khoản cho thị trường thông qua việc mua lại giấy tờ có giá.
Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở có đặc điểm là có thể linh hoạt ở cả hai chiều mua và bán giấy tờ có giá để tăng, giảm lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Lợi thế của công cụ này so với hai công cụ kể trên là không làm ảnh hưởng quá mạnh tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng (trường hợp sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc) và thay đổi định hướng chính sách của NHTW (trường hợp thay đổi lãi suất chiết khấu). Chính vì vậy, trước đòi hỏi về sự linh hoạt trong phản ứng của CSTT với sự biến động của nền kinh tế khi hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra yêu cầu cho NHTW phải hoàn thiện và sử dụng nhiều hơn nghiệp vụ thị trường mở.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên Cứu Về Chính Sách Tiền Tệ Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Tại Các Quốc Gia Trên Thế Giới
- Mục Tiêu Hoạt Động Và Mục Tiêu Trung Gian Của Chính Sách Tiền Tệ
- Lợi Ích Và Hạn Chế Của Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Cơ Sở Lý Luận Về Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ Tác Động Tới Nền Kinh Tế Trong Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Cstt Nới Lỏng Trong Cơ Chế Tỷ Giá Cố Định Và Vốn Lưu Chuyển Dễ Dàng
- Bối Cảnh Kinh Tế Vĩ Mô Của Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, NHTW các quốc gia giảm dần việc sử dụng các công cụ CSTT trực tiếp mà chuyển sang những công cụ CSTT gián tiếp để tác động vào các mục tiêu hoạt động. Những công cụ trực tiếp như quy định hạn mức tín dụng, khống chế trực tiếp lãi suất tiền gửi - tiền vay, không chế trực tiếp tỷ giá giao dịch của ngân hàng với khách hàng thường ít được sử dụng hơn. Trong đó,
hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải thực hiện khi cấp tín dụng đối với nền kinh tế. Công cụ này thường được áp dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức khối lượng tín dụng cung ứng.
Tuy nhiên, trong trường hợp các công cụ gián tiếp không phát huy được tác dụng do bản thân công cụ và thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện, hoặc do mức cầu tiền và đầu tư, tiêu dùng kém nhạy cảm với lãi suất, NHTW không kiểm soát được lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng…, việc áp dụng hạn mức tín dụng nói riêng và các công cụ CSTT gián tiếp là điều khó có thể tránh khỏi. Lập luận này đưa đến một nhận định là cho dù trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã xảy ra, việc một NHTW quay lại sử dụng các công cụ trực tiếp là điều có thể chấp nhận được khi các công cụ gián tiếp không phát huy tác dụng. Điều cốt lõi là phải bảo đảm ổn định tiền tệ, tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô và biết hạn chế những nhược điểm của các công cụ trực tiếp, tiến tới áp dụng trở lại các công cụ gián tiếp khi điều kiện cho phép.
Hình 1.1: Tác động của điều hành CSTT thông qua mở rộng lượng tiền cung ứng tới sản lượng và giá cả của nền kinh tế
Nguồn: [8, tr.239].
Về kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ
Tiếp đó, để những công cụ CSTT phát huy ảnh hưởng thì chúng phải được truyền qua các kênh truyền dẫn. CSTT luôn bao gồm hai giai đoạn tuy tách biệt nhưng có mối quan hệ mật thiết là phản ứng của NHTW trước những sự biến động của các mục tiêu (thông qua việc sử dụng các công cụ) và mức độ truyền dẫn những thay đổi trong công cụ CSTT tới các mục tiêu hoạt động, trung gian, và mục tiêu
cuối cùng. Các kênh truyền dẫn truyền thống của CSTT tới nền kinh tế bao gồm kênh lãi suất, giá tài sản (tỷ giá, giả cổ phiếu, và của cải), và kênh tín dụng. Mức độ hiệu lực của các kênh này trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ khác so với thời kỳ nền kinh tế đóng và phụ thuộc vào nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau.
Thứ nhất, kênh lãi suất
Đối với kênh lãi suất, mức độ tác động của các công cụ CSTT tới lãi suất thị trường và từ lãi suất thị trường tới hoạt động đầu tư và tiêu dùng là khác nhau giữa trường hợp nền kinh tế đóng và nền kinh tế mở. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, luồng vốn đầu tư nước ngoài dồi dào đổ vào trong nước và những kỳ vọng lạc quan của các chủ thể kinh tế vào triển vọng phát triển trong tương lai có thể khiến cho đầu tư trở nên ít nhạy cảm với lãi suất. Các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một mức chi phí vốn cao hơn khi họ kỳ vọng vào nền kinh tế trong nước sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Lúc này, điều chỉnh tăng mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tương đương với mức tăng như trong giai đoạn chưa hội nhập kinh tế chưa chắc đã mang lại hiệu quả như mong đợi. Do vậy, điều cần thiết đối với NHTW là phải đánh giá được mức độ tăng lãi suất thị trường cần thiết để có thể kiểm soát được lượng cung tiền và tín dụng. Các mô hình kinh tế lượng đo lường độ nhạy cảm của cầu tiền, đầu tư, và tiêu dùng trước biến động của lãi suất trong hai giai đoạn trước và sau khi hội nhập kinh tế quốc tế là một công cụ hữu ích cho việc ra các quyết định điều chỉnh mặt bằng lãi suất.
Bên cạnh đó, mức độ độc lập của kênh lãi suất sẽ bị giảm đi phần nào khi NHTW lựa chọn một cơ chế tỷ giá thiếu linh hoạt. Mức độ tự do hoá các giao dịch vốn tăng dần trong khi tỷ giá không được điều chỉnh theo cung cầu thị trường sẽ buộc NHTW phải can thiệp mua bán ngoại tệ từ dự trữ ngoại hối. Hành vi can thiệp này sẽ khiến cho lượng vốn khả dụng tại hệ thống ngân hàng thay đổi, cung tiền sẽ thay đổi theo, từ đó tác động tới mức lãi suất trong nền kinh tế. Nếu không sử dụng biện pháp này hoặc lượng dự trữ ngoại hối là không đủ để can thiệp, NHTW buộc phải tăng mặt bằng lãi suất nội tệ trên thị trường để làm tăng mức độ hấp dẫn của đồng nội tệ so với ngoại tệ. Nói cách khác, áp lực từ biến động của tỷ giá trong bối cảnh theo đuổi một cơ chế tỷ giá thiếu linh hoạt sẽ gián tiếp chi phối lãi suất nội tệ, và tiếp theo là các hành vi tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế. CSTT của NHTW vì vậy có thể không đạt được các mục tiêu đã đề ra ban đầu.
Thứ hai, kênh giá tài sản
Kênh tỷ giá sẽ phát huy ảnh hưởng mạnh hơn trước đây do các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn khi hội nhập kinh tế quốc tế. Trong trung và dài hạn, tỷ giá sẽ tác động tới hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Trong ngắn hạn, sự biến động của tỷ giá là một trong những nguyên nhân gây ra sự dịch chuyển luồng vốn đầu tư ngắn hạn (hot money), từ đó tác động tới các hành vi tiết kiệm, vay mượn, đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế. Kế đó, các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tiết kiểm, vay mượn, đầu tư kể trên sẽ ảnh hưởng tới sản lượng và giá cả trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, độ co giãn của nhu cầu nhập khẩu trong nước với tỷ giá, cầu của người nước ngoài với hàng hoá trong nước, mức độ cạnh tranh của hàng hoá trong nước với nước ngoài hay các quy định của Chính phủ, rào cản về giao dịch vốn từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại, mức độ linh hoạt của cơ chế tỷ giá, mức độ đô la hoá trong nền kinh tế… là các nhân tố sẽ tác động tới hiệu lực của kênh tỷ giá.
Thứ ba, kênh tín dụng
Truyền tải CSTT qua kênh tín dụng cũng có những thay đổi đáng kể khi một quốc gia hội nhập vào kinh tế quốc tế. Đơn cử như trường hợp kênh khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng, việc NHTW thông qua các công cụ CSTT để tác động tới dự trữ của hệ thống ngân hàng từ đó ảnh hưởng tới các quyết định tín dụng có thể bị giảm tính hiệu lực. Nguyên nhân là vì ngân hàng có thể đi vay vốn trên thị trường quốc tế hoặc phát hành cổ phiếu cho các đối tác chiến lược nước ngoài với mục tiêu tăng vốn, cải thiện năng lực tài chính. Hơn nữa, việc thị trường tài chính phát triển nhanh chóng hơn nhờ hội nhập kinh tế quốc tế cũng giúp cho hệ thống ngân hàng có được nhiều lựa chọn về các kênh huy động vốn hơn là phụ thuộc vào tiền gửi của dân cư và các khoản tái chiết khấu, tái cấp vốn từ NHTW.
Đối với kênh truyền tải thông qua bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp, có thể thấy việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm gia tăng niềm tin và kỳ vọng của doanh nghiệp vào triển vọng kinh tế. Cùng với đó, sự phát triển của thị trường bất động sản và chứng khoán có thể làm tăng tài sản của doanh nghiệp. Nếu như nền kinh tế phát triển tốt, thu nhập, dòng tiền và của cải của doanh nghiệp tăng lên sẽ
khuyến khích hệ thống gia tăng vay vốn ngân hàng. Sự tăng lên về phía cầu tín dụng này xuất phát cả từ mong muốn vay vốn lẫn khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế trong nước không cạnh tranh được với các sự gia nhập của các công ty đa quốc gia, của hàng hoá nước ngoài thì dần dần khả năng hấp thụ vốn của các doanh nghiệp nội địa sẽ giảm xuống cùng với sự gia tăng mức độ hội nhập. Khả năng hấp thụ vốn và sử dụng vốn hiệu quả từ đó mà giảm xuống. Trước nguy cơ tiềm ẩn này, CSTT cần phải có sự điều chỉnh về cơ cấu tín dụng phù hợp theo hướng có những ưu đãi đối với các khu vực kinh tế chủ chốt thông qua chính sách tín dụng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng chịu sự chi phối của Nhà nước.
Do có sự khác nhau về mức độ nhạy cảm giữa các mục tiêu với từng công cụ CSTT cũng như sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các kênh truyền dẫn nên việc lựa chọn các mục tiêu và sử dụng sao cho hiệu quả các công cụ CSTT là điều hết sức phức tạp đối với công tác điều hành CSTT của bất kỳ NHTW nào.
Qua phân tích, có thể khẳng định công tác điều hành CSTT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có những thay đổi đáng kể so với thời kỳ nền kinh tế đóng. Điều này yêu cầu NHTW phải có những biện pháp hoàn thiện các công cụ và thay đổi cách thức điều hành sao cho phù hợp với bối cảnh mới. Không có một khung tối ưu nào cho việc xây dựng và sử dụng các công cụ CSTT mà đối với mỗi quốc gia với các đặc điểm thể chế, kinh tế, xã hội khác nhau và trong từng thời kỳ khác nhau mà NTHW phải linh hoạt điều chỉnh phương thức điều hành sao cho phù hợp với đòi hỏi từ thực tiễn.
2.2.2.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Cũng giống như hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra cơ hội đồng thời đặt ra không ít thách thức đối với hoạt động điều hành CSTT của NHTW lẫn hiệu quả CSTT. Ảnh hưởng tích cực lấn át ảnh hưởng tiêu cực hay ngược lại phụ thuộc vào diễn biến kinh tế thế giới nhưng phần lớn lại phụ thuộc những thay đổi trong tư duy điều hành CSTT của NHTW cũng như những cải cách để thích ứng với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế.
* Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế tới điều hành chính sách tiền tệ
Điều hành CSTT của NHTW nhờ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có những thay đổi tích cực do sự phát triển của thị trường tài chính, của các công cụ CSTT linh hoạt và hoạt động điều hành cũng trở nên độc lập hơn chính bởi đòi hỏi của hội nhập kinh tế. Những thay đổi này có thể giúp công tác điều hành CSTT trở nên linh hoạt, hiệu quả hơn.
(1) Công cụ CSTT gián tiếp có điều kiện được sử dụng và phát huy tác dụng
Trong điều kiện hội nhập kinh tế, xu hướng chung là các NHTW thường tiến tới tự do hoá hoặc gia tăng mức độ thị trường trong cơ chế điều hành lãi suất và tỷ giá. Nhờ vào sự linh hoạt và hiệu quả so với các công cụ CSTT gián tiếp, các công cụ CSTT gián tiếp được NHTW sử dụng nhiều hơn so với trước khi hội nhập kinh tế quốc tế. Thực vậy, công cụ trực tiếp là những quy định, hạn chế về lãi suất, hạn mức tín dụng sẽ có tác động trực tiếp đến tín dụng của hệ thống NHTM nhưng lại mang tính áp đặt, không tuân theo cơ chế thị trường. Do đó, nếu áp dụng trong thời gian dài, các công cụ trực tiếp, thường gây méo mó thị trường, phân bổ không hợp lý nguồn lực, hạn chế cạnh tranh giữa các NHTM....
Trong khi đó, công cụ gián tiếp thông qua cung cầu thị trường để xác định giá (lãi suất) và khối lượng (tín dụng) nên các công cụ này rất linh hoạt đồng thời bản thân NHTW có thể dễ dàng điều chỉnh mà không lo ngại gây ra những cú sốc cho thị trường. Công cụ gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, trở thành công cụ hữu dụng trong nền kinh tế mở và hội nhập, tác động đến mặt bằng lãi suất trên thị trường từ đó điều chỉnh linh hoạt tỷ giá hối đoái để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và đồng thời cũng có thể khuyến khích tiết kiệm cho đầu tư để góp phần tăng trưởng kinh tế... Trong môi trường vốn tự do luân chuyển giữa các nước, nghiệp vụ thị trường mở trở nên rất hữu hiệu trong việc giảm nhẹ những tác động từ sự biến động của những luồng vốn đầu cơ ngắn hạn.
Chính quá trình tự do hoá tài chính sẽ giúp NHTW có điều kiện thuận lợi để sử dụng các công cụ này. Các nước chưa tiến hành tự do hoá tài chính rất khó thực hiện được nghiệp vụ thị trường mở trên quy mô rộng vì thiếu những công cụ để mua bán trên thị trường. Trong quá trình tự do hoá tài chính, các giấy tờ có giá và các
công cụ nợ phái sinh trở nên đa dạng, NHTW các nước có được thuận lợi trong quá trình điều tiết thị trường thông qua mua bán và định giá lãi suất giấy tờ có giá trong nghiệp vụ thị trường mở. Trong môi trường tự do luân chuyển vốn giữa các nước, nghiệp vụ thị trường mở đặc biệt hiệu quả trong việc giảm ảnh hưởng tiêu cực của các luồng vốn đầu cơ ngắn hạn ra vào nền kinh tế.
(2) Thị trường tiền tệ và thị trường vốn phát triển và mang tính toàn cầu
Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy thị trường tài chính trong nước phát triển và phản ứng linh hoạt hơn đối với thị trường quốc tế, giúp hệ thống ngân hàng mở rộng năng lực cạnh tranh về vốn, công nghệ, quy mô, và dần nâng cao hiệu quả hoạt động. Nhờ vậy, tính hiệu lực trong điều hành CSTT của NHTW, thông qua việc tạo ra một khuôn khổ điều hành và truyền dẫn CSTT được tăng cường hơn. Hệ thống các tổ chức tài chính tham gia vào các thị trường này cũng hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tác động tích cực đến kênh truyền dẫn tác động của CSTT [11].
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế không chỉ giúp thị trường tài chính trong nước hoạt động hiệu quả hơn mà còn giúp thị trường tài chính toàn cầu phát triển sâu rộng hơn, các công cụ trên thị trường ngày càng phong phú và có tính thanh khoản cao.
(3) Mức độ độc lập trong điều hành CSTT của NHTW được tăng cường
Chính phủ các nước thường mong muốn đạt được nhiều mục tiêu kinh tế xã hội, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Tại các quốc gia này, NHTW thường là một cơ quan trực thuộc Chính phủ nên hoạt động điều hành CSTT thường phải hướng đến các mục tiêu do Chính phủ để ra. Việc mất đi hoặc giảm đi tính độc lập của CSTT khiến cho NHTW không thể chủ động thực hiện các biện pháp điều hành CSTT hướng tới các mục tiêu phù hợp trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, mức độ độc lập yếu còn làm giảm sự tin tưởng của công chúng vào khả năng điều hành CSTT của NHTW. Thực trạng này thường dẫn tới tình trạng lạm phát quá cao, gây bất ổn cho thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Khi hội nhập kinh tế quốc tế, NHTW cần có một mức độ độc lập nhất định, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với việc thực thi CSTT cần phải được rõ ràng, để định hướng thị trường cũng như bảo đảm CSTT có thể phản ứng linh hoạt với những cú sốc gia tăng cả về tần suất lẫn mức độ.