Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
2.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Hiện nay, trong văn bản pháp luật của NHTW các nước và các tài liệu nghiên cứu về CSTT thì thuật ngữ "Chính sách tiền tệ" được định nghĩa là một chính sách vĩ mô của Chính phủ bên cạnh các chính sách vĩ mô khác như CSTK, chính sách ngoại thương…, trong đó mô tả các công cụ điều hành và các mục tiêu. CSTT cùng với CSTK là hai chính sách kinh tế vĩ mô chủ chốt được Chính phủ ở hầu hết các quốc gia sử dụng để can thiệp vào nền kinh tế nhằm hướng đến các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, chỉ có một số ít NHTW các nước đưa ra định nghĩa về CSTT, cụ thể như sau:
NHTW Canada: CSTT là một nhóm các quyết định được thực hiện bởi Chính phủ, thường đại diện bởi NHTW, liên quan tới lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế [73, tr.19].
Cục Dự trữ liên bang Mỹ: CSTT là các hoạt động thực hiện bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ để tác động tới mức độ sẵn có và chi phí của tiền tệ và tín dụng nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế của quốc gia [45].
Có thể bạn quan tâm!
- Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 2
- Nghiên Cứu Về Chính Sách Tiền Tệ Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Tại Việt Nam
- Nghiên Cứu Về Chính Sách Tiền Tệ Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Tại Các Quốc Gia Trên Thế Giới
- Lợi Ích Và Hạn Chế Của Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Tác Động Của Điều Hành Cstt Thông Qua Mở Rộng Lượng Tiền Cung Ứng Tới Sản Lượng Và Giá Cả Của Nền Kinh Tế
- Cơ Sở Lý Luận Về Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ Tác Động Tới Nền Kinh Tế Trong Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra [26, tr.1].
Theo quan điểm của tác giả: CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ được thực hiện bởi NHTW thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ để tác động tới lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế của quốc gia như bình ổn giá cả, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm đầy đủ và các mục tiêu khác.
2.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
2.1.2.1. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ
Duy trì giá cả ổn định
Lạm phát biến động thất thường và ở mức cao có tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và sự ổn định, phát triển của xã hội, các nhà nghiên cứu chính sách kinh tế đã đưa ra một nhận định chung là duy trì giá cả ổn định, thể hiện bởi tốc độ tăng giá chậm và ổn định, là mục tiêu hàng đầu của CSTT. Nguyên nhân là khi giá cả tăng cao và biến động bất thường sẽ gây ra sự mất ổn định trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh, hành vi tiêu dùng và đầu tư, sẽ dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kể cả khi lạm phát đã được dự báo trước thì nền kinh tế phải dành các nguồn lực đáng ra có thể sử dụng vào sản xuất để đối phó với lạm. Đối với lạm phát không dự báo trước được, quá trình phân phối lại thu nhập thực giữa người đi vay và người cho vay xảy ra, làm cho rủi ro đối với hai chủ thể này tăng lên và ảnh hưởng tiêu cực tới việc lập kế hoạch tài chính trong dài hạn.
Bên cạnh quan điểm về mục tiêu quan trọng nhất của CSTT là duy trì mức giá cả ổn định, các nhà thực thi và nghiên cứu chính sách kinh tế còn đưa ra năm mục tiêu khác bao gồm: (1) duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên - công ăn việc làm cao, (2) thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, (3) ổn định thị trường tài chính, (4) ổn định lãi suất, và (5) duy trì sự ổn định của thị trường ngoại hối.
(1) Duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên
Tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên có nghĩa là nền kinh tế chỉ có thất nghiệp chuyển đổi và thất nghiệp cơ cấu mà không có thất nghiệp chu kỳ. Tuy nhiên, CSTT thường không thể tác động nhiều vào việc giảm hai loại thất nghiệp này vì hai loại thất nghiệp này luôn tồn tại ở một mức độ nhất định trong nền kinh tế. Do vậy, mục tiêu của CSTT là hạn chế tối đa hiện tượng thất nghiệp chu kỳ thường xảy ra trong các đợt suy thoái kinh tế khi người lao động mất việc làm và không thể tìm được việc làm mới.
(2) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì mức công ăn việc làm cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bởi vì doanh nghiệp có xu hướng đầu tư nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.
Tuy nhiên, có những tranh luận nhất định về vai trò của CSTT trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như quan điểm của Keynes về sự thiếu hiệu quả của CSTT trong khôi phục lại tăng trưởng kinh tế khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái. CSTT thường được cho là tập trung vào mục tiêu ổn định giá cả trong khi CSTK tập trung vào mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [17].
(3) Duy trì sự ổn định của thị trường tài chính
Khi thị trường tài chính rơi vào tình trạng bất ổn, doanh nghiệp và người tiêu dùng cần vốn không thể tiếp cận được nguồn vốn từ các chủ thể thặng dư vốn, điều này dẫn tới tình trạng sản xuất kinh doanh bị đình đốn và nhu cầu tiêu dùng bị giảm sút, tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và kéo theo các bất ổn xã hội khác. Như vậy, mục tiêu của NHTW là phải thúc đẩy sự phát triển cũng như bảo đảm mức độ an toàn của hệ thống tài chính thông qua các hoạt động hỗ trợ thanh khoản, thanh tra, giám sát để phát hiện rủi ro và thực thi các biện pháp can thiệp kịp thời và hợp lý. Ví dụ, NHTW cần thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trong trường hợp các ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản trầm trọng.
(4) Ổn định lãi suất thị trường
Lãi suất biến động mạnh sẽ gây ra tính không chắc chắn trong nền kinh tế và làm giảm nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp và tiêu dùng của hộ gia đình khi họ cần phải vay mượn. Lãi suất biến động cao cũng khiến cho các trung gian tài chính gặp khó khăn trong việc quản trị rủi ro này. Ví dụ, lãi suất tăng lên sẽ làm giảm giá trị các tài sản có và tăng giá trị các tài sản nợ trên bảng cân đối kế toán của tổ chức tài chính, dẫn tới sự giảm xuống của vốn chủ sở hữu, thậm chí đe dọa sự tồn tại của chính (nhiều hiệp hội tiết kiệm và cho vay và các ngân hàng tại Mỹ đã gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng trong những năm 1980 và 1990 do sự biến động liên tục của lãi suất) [66].
(5) Duy trì sự ổn định của thị trường ngoại hối
Khi các quốc gia ngày càng hội nhập vào kinh tế thế giới, các giao dịch hàng hoá và tài chính trở nên phổ biến thì tầm quan trọng của thị trường ngoại hối đã được các NHTW chú ý hơn bên cạnh các mục tiêu khác của CSTT. Sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods và tiếp theo đó là các cuộc khủng hoảng tiền tệ tại Mexico (1994), châu Á (1997 - 1998), Nga (1998) và Arghentina (2000)… đã chỉ ra tầm
quan trọng của phối hợp giữa điều hành CSTT và CSTK trong việc tạo sự ổn định giá trị của đồng nội tệ và thúc đẩy hoạt động ngoại thương.
Trong dài hạn, mục tiêu ổn định giá cả và các mục tiêu khác của CSTT là nhất quán vì giá cả ổn định thúc đẩy kinh tế phát triển và bảo đảm lãi suất và thị trường tài chính ổn định. Tuy nhiên, trong ngắn hạn mục tiêu ổn định giá thường mâu thuẫn với các mục tiêu mức công ăn việc làm cao và duy trì lãi suất ổn định. Chính vì lý do này, NHTW nhiều quốc gia đã lựa chọn ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn. Đạo luật Hệ thống các NHTW Châu Âu và NHTW Châu Âu quy định "mục tiêu hàng đầu của ESCB - European System of Central Banks là duy trì giá cả ổn định. Không phương hại đến mục tiêu giá cả ổn định, CSTT sẽ hỗ trợ các chính sách kinh tế của Liên minh với mục tiêu đóng góp cho sự đạt được các mục tiêu của Liên minh…" [66] trong đó các mục tiêu của Liên minh bao gồm duy trì mức công ăn việc làm cao cùng với tăng trưởng bền vững không đi kèm lạm phát. Trong Đạo luật NHTW Anh 1998, điều 10 cũng quy định "Liên quan đến CSTT, các mục tiêu của NHTW Anh là (a) duy trì giá cả ổn định, và (b) theo sau đó, hỗ trợ mục tiêu kinh tế… bao gồm mục tiêu tăng trưởng và việc làm" [40].
Việc NHTW duy trì lạm phát ổn định ở mức thấp sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế nên ổn định giá cả đã trở thành mục tiêu hàng đầu của NHTW nhiều quốc gia trong dài hạn. Tuy nhiên, thực hiện CSTT với mục tiêu duy trì lạm phát ở mức thấp liên tục trong ngắn hạn sẽ dẫn tới khả năng sản lượng của nền kinh tế thường xuyên biến động. Trong ngắn hạn, NHTW có thể hạn chế mức biến động trong sản lượng của nền kinh tế bằng việc cho phép lạm phát chệch ra khỏi mục tiêu trong ngắn hạn, bảo đảm vẫn cam kết duy trì mức lạm phát thấp trong trung và dài hạn. Mặc dù vậy, định hướng này của NHTW thường dẫn tới tình huống tập trung theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn và bỏ rơi mục tiêu dài hạn, hay còn gọi là vấn đề không nhất quán thời gian. Vấn đề này chỉ ra việc điều hành CSTT không nhất quán có thể dễ dàng gây ra lạm phát cao trong trường hợp NHTW theo đuổi cùng một lúc hai mục tiêu trong ngắn hạn là duy trì lạm phát ở mức mục tiêu và tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên. Do đó, một số NHTW trên thế giới đã lựa chọn duy trì giá cả ổn định là mục tiêu trong cả ngắn hạn và dài hạn, không quan tâm tới sự biến động trong sản lượng của nền kinh tế.
2.1.2.2. Mục tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ
NHTW không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức tới các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế vì các tác động từ việc sử dụng công cụ CSTT tới các mục tiêu cuối cùng luôn cần có thời gian để phát huy tác dụng, cũng như đôi khi khó kiểm soát được do còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác. Nhằm khắc phục hạn chế này, NHTW thường xác định các mục tiêu hoạt động và mục tiêu trung gian với vai trò như là những bước trung gian trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng [19].
Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ
Mục tiêu hoạt động của CSTT là những biến số kinh tế mà NHTW có thể sử dụng các công cụ CSTT để kiểm soát hàng ngày. Mục tiêu hoạt động phải bảo đảm là có thể đo lường được; có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của CSTT, có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với mục tiêu trung gian được NHTW lựa chọn [19]. Trên thế giới, lượng tiền cơ sở, dự trữ của các NHTM tại NHTW, và mức lãi suất liên ngân hàng ngắn hạn là các mục tiêu hoạt động được NHTW lựa chọn. Các mục tiêu hoạt động của các NHTW được chia thành những loại chính như sau:
Một hay nhiều mục tiêu hoạt động: NHTW Nhật lại sử dụng hai mục tiêu hoạt động trong khi Cục dự trữ Liên bang Mỹ xác định lãi suất vốn liên bang là mục tiêu hoạt động duy nhất của mình.
Mục tiêu hoạt động rõ ràng và mục tiêu hoạt động ngầm: Cục dự trữ Liên bang Mỹ sử dụng lãi suất vốn liên bang là mục tiêu hoạt động rõ ràng trong khi NHTW Châu Âu lại không thể hiện một mục tiêu hoạt động rõ ràng. NHTW Nhật xác định hai mục tiêu rõ ràng của mình là dự trữ vượt mức và lãi suất ngắn hạn.
Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ
Một mục tiêu trung gian là một biến số kinh tế mà NHTW có thể kiểm soát sau một độ trễ thời gian hợp lý, với một độ chính xác tương đối, và có mối quan hệ tương đối ổn định và chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng của CSTT. Bằng việc theo dõi những biến số này, NHTW có thể quyết định liệu những chính sách của mình có đạt hiệu quả như mong đợi hay không và điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết.
Những mục tiêu trung gian điển hình của CSTT là tổng lượng tiền như M1, M2, hoặc M3, dư nợ tín dụng, hoặc lãi suất trung và dài hạn. Tuy nhiên, những biến
số này thể hiện một số hạn chế như những thay đổi bất thường trong lượng cung tiền và dư nợ tín dụng không cho biết liệu NHTW có nên can thiệp hay không và do đó không thể hiện tính "mục tiêu" của những biến số này. Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa lãi suất dài hạn và các mục tiêu cuối cùng là sản lượng thực tế và lạm phát, tuy nhiên mối quan hệ này lại không ổn định và yếu và không thể hiện một tín hiệu cụ thể nào về nền kinh tế trong tương lai.
2.1.3. Công cụ của chính sách tiền tệ
Thông qua sử dụng các công cụ CSTT, NHTW có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mục tiêu hoạt động, qua đó tác động tới các mục tiêu trung và sau đó là các mục tiêu cuối cùng của CSTT. Về cơ bản, NHTW sử dụng ba loại công cụ, đó là nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, và dự trữ bắt buộc. Những công cụ này có nhiều biến đổi qua thời gian và trong những bối cảnh kinh tế khác nhau được sử dụng, phối hợp với nhau theo một định hướng, chủ đích nhất định của người làm chính sách. Trong thực tế, các công cụ này được vận dụng linh hoạt thành các công cụ như lãi suất NHTW trả cho các khoản dự trữ bắt buộc và vượt mức, lãi suất tái chiết khấu, tín phiếu NHTW và lãi suất tín phiếu Kho bạc…
2.1.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW thực hiện mua, bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ như tín phiếu NHTW, tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Chính phủ, và một số loại giấy tờ đủ tiêu chuẩn do NHTW quy định, nhằm tác động tới lượng vốn khả dụng của các tổ chức tài chính cũng như ảnh hưởng tới chi phí vốn của các tổ chức này. Nghiệp vụ này có tác động đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM và làm thay đổi khối lượng tiền tệ cung ứng trên thị trường. Ngoài ra, lãi suất đấu thầu các chứng khoán sử dụng trong công cụ nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng tới lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất kinh doanh của các NHTM, và ảnh hưởng tới các hành vi trong nền kinh tế.
Các giấy tờ có giá được sử dụng trên thị trường mở là: tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Chính phủ, thương phiếu... Các thành viên tham gia thị trường mở là các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, và các doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để được tham gia thị trường mở.
Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ linh hoạt, chính xác và có tác động tức thì đến lượng vốn khả dụng của các NHTM. NHTW có được sự linh hoạt trong điều tiết lượng tiền cung ứng ở các mức độ khác nhau. NHTW có thể chủ động tiến hành mà không phải lệ thuộc vào nhu cầu của các NHTM. Do vậy, nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng nhiều nhất trong các công cụ của CSTT. Ngoài ra, NHTW có thể thay đổi định hướng điều hành, hay sửa chữa những sai sót trong điều hành CSTT qua nghiệp vụ thị trường mở khá dễ dàng.
Nhược điểm: Để công cụ này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi sự phát triển nhất định của thị trường tiền tệ và thị trường tài chính thứ cấp. Bên cạnh đó, hầu hết tiền trong lưu thông phải nằm trong tài khoản của các NHTM, phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Các giấy tờ có giá cũng cần có khối lượng giao dịch lớn và đa dạng về chủng loại để làm tăng tính thanh khoản và hiệu quả tác động của CSTT thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Ngoài ra, NHTW phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống NHTM.
2.1.3.2. Chính sách chiết khấu
Công cụ chiết khấu là công cụ của NHTW dùng để cho vay tái cấp vốn cho các NHTM thông qua cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các NHTM. Khi NHTW cho các NHTM vay để kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu) và các tài sản tài chính có thể mang ra để giao dịch với NHTW.
Ưu điểm: NHTW có thể sử dụng công cụ chiết khấu để thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng. Chính sách chiết khấu rất hiệu quả để tăng dự trữ của hệ thống trong khủng hoảng tài chính vì tiền được bơm ngay lập tức đến các NHTM nào đang cần vốn nhất. Ngoài ra, công cụ lãi suất chiết khấu cũng có vai trò thông báo về định hướng điều hành CSTT của NHTW tới các chủ thể trong nền kinh tế.
Nhược điểm: NHTW không hoàn toàn kiểm soát được tác động của công cụ này tới khối lượng tiền tệ cung ứng trong nền kinh tế bởi vì các NHTM mới là người quyết định việc sử dụng công cụ này (khi cần vốn mới tham gia giao dịch).
2.1.3.3. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là một phần số dư tiền gửi các loại mà các NHTM phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTW. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian
nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của NHTM. Điều chỉnh dự trữ bắt buộc có tác động trực tiếp vào lượng tiền cơ sở và từ đó tới lượng cung tiền.
Ưu điểm: Dự trữ bắt buộc là công cụ tạo ra sự chủ động cao nhất cho NHTW trong số các công cụ CSTT và có tác động mạnh nhất khi một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể ảnh hưởng rất lớn tới lượng tiền cung ứng.
Nhược điểm: NHTW gặp khó khăn trong sử dụng công cụ này khi muốn thay đổi lượng cung tiền ở mức độ nhỏ hoặc vừa phải do ảnh hưởng của việc điều chỉnh nhỏ trong dự trữ bắt buộc có thể gây ra ảnh hưởng tới tới các mục tiêu hoạt động và trung gian. Ngoài ra, việc thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tạo ra sự biến động lớn trong dự trữ của hệ thống NHTM, có thể gây ra rủi ro thanh khoản cho các tổ chức này. Công cụ này còn có độ trễ về mặt thời gian nên một sự gia tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đòi hỏi NHTW phải nghiên cứu trước sự chịu đựng của các NHTM, cũng cần phải để thời gian cho các NHTM đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới.
2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.2.1. Những vấn đề cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Thuật ngữ "hội nhập quốc tế" trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh) là "international integration", có nghĩa là "liên kết quốc tế". Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động đạt đến một trình độ cao nhất định, tốc độ phát triển nhanh của khoa học - kĩ thuật diễn ra nhanh chóng, quy mô và tốc độ của quá trình hội nhập quốc tế được tạo điều kiện để diễn ra nhanh chóng hơn. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Mặc dù hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực này có mối liên hệ mật thiết, đan xen, và tác động qua lại lẫn nhau nhưng thực tiễn trên thế giới cho thấy, kinh tế chính là lĩnh vực tiên quyết tạo nên sự ra đời của quá trình hội nhập.
Như vậy, có thể hiểu "hội nhập quốc tế là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế" [32].