Lợi Ích Và Hạn Chế Của Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế


Hay "hội nhập kinh tế quốc tế là một trình độ cao của hợp tác kinh tế quốc tế, là quá trình một nước tham gia vào một tổ chức chung, một trào lưu chung của quốc tế, biến mỗi quốc gia trở thành một bộ phận trong một tổng thể" [25].

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hội nhập quốc tế trong đó có sự gắn kết, chia sẻ các giá trị và tuân thủ các định chế với nhau trên phương diện kinh tế. Hội nhập kinh tế là một nước gia nhập, trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế. Các thành viên tham gia hội nhập cam kết hoạt động theo những nguyên tắc thoả thuận và các thông lệ, chuẩn mực chung [3].

Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế chỉ được hiểu đơn thuần là những hoạt động giảm thuế, mở rộng thị trường. Nhưng ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế được định nghĩa rộng hơn, là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự rằng buộc theo những quy định chung của khối. Hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc, một là gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới, và hai là gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Bản chất của nó là sự mở cửa nền kinh tế, tham gia các định chế kinh tế - tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại, đầu tư trên hầu hết các lĩnh vực, và kích thích các yếu tố, điều kiện trong nước để phát triển kinh tế.

2.2.1.2. Phân loại hội nhập kinh tế quốc tế

Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết các nền kinh tế theo nhiều hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực, và toàn cầu. Trên cơ sở đó, hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành bốn mức độ khác nhau bao gồm: (1) đơn phương, (2) song phương, (3) khu vực, liên khu vực, và (4) đa phương.

(1) Hội nhập kinh tế quốc tế đơn phương: các nước chủ động, tự nguyện bỏ bớt những quy định gây cản trở đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, tự giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá xuất- nhập khẩu để tự do hoá và mở cửa nền kinh tế quốc gia.


(2) Hội nhập kinh tế quốc tế song phương: hội nhập kinh tế giữa hai nền kinh tế. Đây là hình thức mà một số vùng của hai hay một số nước khác nhau gần gũi về địa lý thực hiện một số liên kết kinh tế hay kết nối cơ sở hạ tầng nhằm phát huy sự bổ trợ lẫn nhau về nguồn lực của các vùng này để phát triển kinh tế. Ví dụ: Tam giác Phát triển SIJORI (gồm Singapore + tỉnh Riau của Indonesia + bang Johor của Malaysia), Tam Giác Phát triển Việt Nam-Lào-Cămpuchia.

(3) Hội nhập kinh tế quốc tế khu vực, liên khu vực: một nhóm các nền kinh tế liên kết với nhau. Ví dụ như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Liên minh châu Âu (EU), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA),… hay giữa các nước thuộc hai khu vực địa lý khác nhau, như hợp tác Á-Âu ASEM, Khu vực Mậu dịch tự do EU-ASEA.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

(4) Hội nhập kinh tế đa phương: tham gia vào hoạt động kinh tế trên quy mô toàn thế giới với khuôn khổ WTO là một ví dụ điển hình.

Hội nhập kinh tế quốc tế có thể xét đến năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm: (1) khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area); (2) liên minh thuế quan (Custom Union); (3) thị trường chung (Common Market); (4) liên minh tiền tệ (Monetary Union), và (5) liên minh kinh tế (Economic Union),.

Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 6

(1) Khu vực mậu dịch tự do: Đặc trưng cơ bản của khu vực mậu dịch tự do là những nước tham gia khu vực mậu dịch tự do thực hiện bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Tuy nhiên có hạn chế về định lượng trong thương mại hàng hoá nội khối, đồng thời không có mức thuế quan chung áp dụng cho những nước ngoài khối, các thành viên vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các nước này. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều khu vực mậu dịch tự do, như Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), khu vực mậu dịch tự do Trung Mỹ, Hiệp hội thương mại tự do Mỹ La tinh (LAFTA)...

(2) Liên minh thuế quan: Liên minh thuế quan là mô hình liên kết kinh tế trong đó các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Nói cách khác, liên minh thuế quan là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hoá từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép


tránh được những phức tạp liên quan đến quy tắc xuất xứ, tuy nhiên lại làm nảy sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên. Một số ví dụ điển hình cho loại hình liên kết này là Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT), Nhóm ANDEAN (Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru) và Liên minh thuế quan Nga-Belarus-Kazakhstan…

(3) Thị trường chung: Thị trường chung là một trong những mô hình của liên kết kinh tế quốc tế mà trong đó có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và liên minh thuế quan, cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước thành viên. Vì thế, thị trường chung không có những cản trở về thương mại giữa các nước trong cộng đồng. Các nước thoả thuận xây dựng chính sách buôn bán chung với các nước ngoài cộng đồng, đồng thời phối hợp thực hiện các chính sách về tiền tệ, tài khoá và việc làm. Đây là hình thức được phát triển ở mức độ cao và đều phải trải qua một quá trình dài. Những thoả thuận sẽ thực hiện được mục tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất trong toàn khối vào năm 2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN là ví dụ điển hình.

(4) Liên minh tiền tệ: Liên minh tiền tệ là hình thức liên kết mà trong đó các nước phối hợp các CSTT với nhau, thoả thuận về dự trữ tiền tệ cũng như phát hành đồng tiền tập thể. Trong đồng minh tiền tệ, các nước thống nhất hoạt động của các NHTW, đồng thời thống nhất hoạt động của các giao dịch với các tổ chức tiền tệ và tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.

(5) Liên minh kinh tế: Liên minh kinh tế được coi là hình thức cao nhất của hội nhập kinh tế. Liên minh kinh tế được xây dựng trên cơ sở các nước thành viên thống nhất thực hiện các chính sách thương mại, tiền tệ, tài chính và một số chính sách kinh tế-xã hội chung giữa các thành viên với nhau và với các nước ngoài khối. Như vậy, ở Liên minh kinh tế, ngoài việc các luồng vốn, hàng hoá, lao động và dịch vụ được tự do lưu thông ở thị trường chung, các nước còn tiến tới thống nhất các chính sách quản lý kinh tế-xã hội, sử dụng chung một đồng tiền. Liên minh Châu Âu là một ví dụ điển hình của một liên minh kinh tế.

2.2.1.3. Lợi ích và hạn chế của hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến tất cả các mặt, các lĩnh vực và tất cả các quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho các quốc gia nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung những lợi ích sau:


(1) Củng cố chính sách và thể chế trong nước để tham gia vào thương mại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ.

(2) Cải thiện tính dễ dàng và an toàn trong tiếp cận các thị trường.

(3) Tăng cường quyền tiếp cận các cơ chế giải quyết tranh chấp các vấn đề thương mại.

(4) Tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong bối cảnh phải cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài.

(5) Các nguồn lực tại các quốc gia và trên toàn thế giới được phân bổ hiệu quả hơn khi các nguồn lực dễ dàng di chuyển tới nơi có hiệu quả sử dụng cao hơn.

(6) Các tổ chức có quy mô khu vực và toàn cầu từng bước được hình thành và củng cố, đưa ra những quy chuẩn để điều phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhiều lĩnh vực khác, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực; đề ra những biện pháp phòng ngừa và giải quyết khó khăn trong trường hợp cần thiết, làm chủ quá trình toàn cầu hoá. Gia nhập các tổ chức quốc tế sẽ giúp các quốc gia thành viên tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ, và những ưu đãi để phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh và hạn chế được những khó khăn, vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế [3].

Tuy vậy, hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra những khó khăn nhất định cho một quốc gia, bao gồm:

(1) Cạnh tranh giữa các quốc gia tăng lên và khiến những quốc gia không có lợi thế cạnh tranh gặp phải khó khăn khi nền sản xuất trong nước bị ảnh hưởng tiêu cực. Các doanh nghiệp nước ngoài với lợi thế, năng lực cạnh tranh tốt hơn sẽ thay thế các doanh nghiệp trong nước và gây ra tình trạng thất nghiệp, sụt giảm sản lượng sản xuất trong nước. Đặc điểm này có thể dẫn tới sự gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi các quốc gia có lợi thế cạnh tranh chỉ tập trung khai thác nguồn tài nguyên giá rẻ tại các quốc gia đang phát triển.

(2) Quyền lực và khả năng điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế trong nước của một quốc gia sẽ bị giảm đi khi phải chấp nhận thực hiện chung các chính sách vĩ mô với một nhóm quốc gia trong cùng một liên minh.


(3) Nền sản xuất non trẻ trong nước, những ngành, và lĩnh vực trọng tâm phát triển trong nước, có tầm quan trọng đối với ổn định tài chính, chính trị của một quốc gia có thể bị ảnh hưởng tiêu cực từ sự xâm nhập của hàng hoá thay thế từ nước ngoài.

(4) Sự di chuyển các nguồn lực trong nền kinh tế với bên ngoài và ngược lại sẽ được tiến hành dễ dàng hơn, tạo ra sự biến động mạnh hơn trong nền kinh tế vĩ mô, có thể vượt khỏi khả năng kiểm soát của Nhà nước, thậm chí gây ra tổn thất lớn về tài chính, tiền tệ, gây ra bất ổn về mặt chính trị đối với quốc gia.

2.2.2. Điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

2.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

CSTT bao gồm những quy tắc và hoạt động của NHTW nhằm đạt được những mục tiêu đề ra như kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tài chính... Những thay đổi trong công tác điều hành CSTT của NHTW thường được thực hiện khi những cú sốc trong và ngoài nước làm ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT. Ví dụ, NHTW xác định tỷ lệ lạm phát mục tiêu cho cả năm là 10% nhưng nếu như tín dụng trong nền kinh tế tăng nhanh, khiến cho lạm phát và kỳ vọng lạm phát tăng vượt quá 10%, NHTW sẽ thực hiện các biện pháp tác động vào điều kiện tiền tệ như điều chỉnh lại lượng cung ứng tiền, lãi suất, tín dụng nhằm hướng tỷ lệ lạm phát về mức mục tiêu đề ra. Để làm được việc này, NHTW sử dụng những công cụ khác nhau của CSTT được trình bày trong mục 2.1.3. nhằm tác động tới các mức lãi suất thị trường, cung tiền, tỷ giá, hay tín dụng trong nền kinh tế.

Như vậy, điều hành CSTT là việc NHTW sử dụng các công cụ CSTT tác động vào các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ.

Các nội dung sau đây trình bày những bốn vấn đề: (1) đặc điểm của công tác điều hành CSTT, (2) lựa chọn mục tiêu của CSTT, (3) sử dụng các công cụ CSTT, và (4) quá trình truyền dẫn tới các mục tiêu CSTT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Về đặc điểm của điều hành CSTT

Khi một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế, công tác điều hành CSTT của NHTW nổi lên ba đặc điểm sau: gia tăng tính linh hoạt, tính không chắc chắn, và độ trễ.


Thứ nhất, tính linh hoạt của công tác điều hành CSTT gia tăng.

CSTT có tính linh hoạt khi có thể phản ứng nhanh trước những biến động thường xuyên trên thị trường tài chính bằng việc sử dụng các công cụ của mình nhằm làm ổn định những biến động này. Tính linh hoạt của CSTT còn được thể hiện khi NHTW có thể lựa chọn loại công cụ cũng như liều lượng sử dụng của công cụ chính sách tiền tệ một cách linh hoạt chỉ trong thời gian ngắn, nhằm đạt được mức độ tác động như mong muốn. CSTT ngày càng cho thấy tính linh hoạt và được sử dụng nhiều nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế khi hội nhập vào kinh tế quốc tế khi mà CSTK thường đòi hỏi những thay đổi lớn trong chính sách thuế, chính sách chi tiêu, đôi khi phải chờ đợi những quyết sách của Quốc hội, Chính phủ. Điều này đặc biệt phù hợp trong bối cảnh chính sách tài khoá không còn nhiều không gian hoạt động khi các nước lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công gia tăng nhanh chóng sau giai đoạn khủng hoảng vừa qua.

Thứ hai, tính không chắc chắn về tác động tới các mục tiêu của CSTT tăng lên.

CSTT có tính không chắc chắn khi các nhà hoạch định chính sách không thể chắc chắn khả năng tác động của công cụ tới các biến số vĩ mô của nền kinh tế. NHTW chỉ có thể sử dụng các công cụ CSTT để tác động vào lượng tiền dự trữ và chi phí vốn của hệ thống ngân hàng (gián tiếp) và/hoặc đến lãi suất thị trường (trực tiếp) nhưng không thể nào kiểm soát được quá trình truyền dẫn từ các mục tiêu hoạt động và trung gian này tới mục tiêu cuối cùng. Điều này do quá trình truyền dẫn CSTT chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố như sự phức tạp trong cấu trúc của nền kinh tế, sự không chắc chắn của các chủ thể khi ra quyết định trong các bối cảnh kinh tế khác nhau, cũng như nhận thức của các chủ thể trong nền kinh tế về CSTT. Khi một nền kinh tế gia nhập vào kinh tế thế giới những thay đổi trong hệ thống tài chính, doanh nghiệp và cơ cấu của toàn nền kinh tế thay đổi liên tục và chịu phụ thuộc thêm từ các yếu tố bên ngoài, càng làm gia tăng mức độ không chắc chắc về tác động của CSTT tới nền kinh tế.

Thứ ba, công tác điều hành CSTT có độ trễ khi phải cần một khoảng thời gian dài thì chính sách tiền tệ mới có thể phát huy ảnh hưởng tới nền kinh tế.

Độ trễ của chính sách tiền tệ bao gồm độ trễ nhận biết (là khoảng thời gian từ khi các biến số vĩ mô là mục tiêu của CSTT thay đổi cho tới NHTW nhận biết được


cần phải can thiệp điều hành), độ trễ thực thi (là khoảng thời gian từ lúc NHTW nhận biết cần phải can thiệp điều hành đến lúc đưa ra quyết định điều hành thông qua việc sử dụng các công cụ), và độ trễ tác động (là khoảng thời gian từ khi NHTW sử dụng các công cụ cho tới khi các công cụ phát huy tác động tới các mục tiêu cuối cùng của CSTT). Trong số các độ trễ kể trên, NHTW chỉ có thể chủ động kiểm soát được hai độ trễ đầu tiên. Độ trễ dài của chính sách tiền tệ kết hợp với các kỹ thuật dự báo không chính xác gây ra hạn chế đáng kể đối với tính linh hoạt của CSTT [42]. Do CSTT có độ trễ nên công tác dự báo cần được hoàn thiện sao cho các nhà điều hành có thể điều chỉnh CSTT nhằm đạt được mục tiêu đã định.

2.2.2.2. Nội dung điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Về lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Khi hội nhập vào kinh tế quốc tế, nền kinh tế trong nước sẽ trở nên khó kiểm soát hơn do cùng lúc phải đối mặt với những cú sốc từ trong nước lẫn những cú sốc từ bên ngoài. Trong khi những cú sốc trong nước có thể dễ dự báo và kiểm soát hơn, thì những cú sốc từ bên ngoài lại khó dự đoán về thời điểm, mức độ. Ngoài ra, khả năng chống chọi đối với các cú sốc từ bên ngoài của một nền kinh tế, nhất là nền kinh tế mở với quy mô nhỏ, là rất thấp cộng với việc chưa có kinh nghiệm khi mới gia nhập kinh tế thế giới. Trong đó, hệ thống tài chính - ngân hàng là khu vực chịu những ảnh hưởng đầu tiên, mạnh mẽ nhất và sau đó lan truyền tới các khu vực khác thông qua những biến động về lãi suất, tỷ giá, tín dụng…

Trước những rủi ro tiềm ẩn trên, công tác điều hành CSTT phải hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô như là mục tiêu hàng đầu. Theo đó, NHTW phải xác định nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện ở tăng trưởng bền vững với cơ cấu kinh tế hợp lý, chất lượng tăng trưởng cao trên cơ sở đầu tư vào các yếu tố chất lượng lao động và công nghệ, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp và ổn định. Như vậy, điều hành CSTT phải hướng tới can thiệp trung hoà những cú sốc tới nền kinh tế thay vì chỉ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhiệm vụ này cần phải được NHTW bám sát triển khai trong cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn.

Về sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc sử dụng các công cụ của CSTT của NHTW sẽ có những khác biệt nhất định so với nền kinh tế đóng. Điều này là do


các hoạt động thương mại và đầu tư với nước ngoài sẽ được diễn ra với tần suất và khối lượng cao hơn dẫn tới nền kinh tế phải đối mặt với nhiều biến động hơn. Đặc biệt, những cú sốc từ bên ngoài nền kinh tế xuất hiện trong thời kỳ đầu một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực và khó lường do các chủ thể trong nền kinh tế chưa có đủ năng lực và kinh nghiệm để chống lại những cú sốc này. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của NHTW là điều hành CSTT, cùng với các chính sách vĩ mô khác, trung hoà hoặc giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực, với mục tiêu ổn định nền kinh tế trong nước. Xuất phát từ lý do này, sẽ có những thay đổi tương ứng trong công tác sử dụng các công cụ dự trữ bắt buộc, chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành CSTT của NHTW.

Thứ nhất, với công cụ dự trữ bắt buộc.

NHTW thường chỉ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với mục tiêu giảm khả năng cấp tín dụng vào nền kinh tế đang tăng trưởng nóng (do nhận khối lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, hoặc do kỳ vọng lạc quan của các chủ thể vào triển vọng kinh tế) hơn là hướng tới mục tiêu quản trị thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Ví dụ, khi NHTW mua vào ngoại tệ do lượng ngoại tệ vào nền kinh tế gia tăng hoặc do các ngân hàng nhận được số vốn uỷ thác đầu tư, tiền gửi từ các tổ chức nước ngoài vào lớn, dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng. Điều này làm gia tăng khả năng cấp tín dụng, đặc biệt là có thể khuyến khích các ngân hàng phân bổ tín dụng vào các lĩnh vực tăng trưởng mạnh nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro như chứng khoán, bất động sản, vàng… Khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng nóng và lạm phát cao, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ mang lại hiệu quả nhanh chóng khi thu hồi lượng tiền dư thừa từ các ngân hàng, ngăn các ngân hàng tiếp tục cấp tín dụng ra nền kinh tế, từ đó giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, cung tiền, và ổn định nền kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ nên được NHTW sử dụng khi thanh khoản của hệ thống ngân hàng dư thừa. Trong trường hợp ngược lại, thiếu hụt thanh khoản do tăng mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể dẫn tới tình trạng một vài hoặc toàn bộ hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu ổn định. Ngoài ra, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được thực hiện trên quan điểm thận trọng khi tồn tại sự khác biệt lớn về năng lực tài chính và năng lực kinh doanh giữa các ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng sẽ hình thành những nhóm ngân hàng có quy mô lớn với tiềm lực tài chính mạnh nhưng cũng có những nhóm ngân

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí