Theo quy định tại Điều 96 Luật kinh doanh bảo hiểm thì dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết. Dự phòng nghiệp vụ phải được trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải tương ứng với phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 cũng đã quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải trích lập các loại dự phòng:
- Dự phòng toán học là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của số tiền bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu được trong tương lai, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm đối với những trách nhiệm đã cam kết khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;
- Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn dưới một năm, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm tiếp theo;
- Dự phòng bồi thường, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết;
- Dự phòng chia lãi, được sử dụng để trả lãi mà doanh nghiệp bảo hiểm đã thỏa thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm;
- Dự phòng bảo hiểm cân đối, được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật.
Mỗi loại dự phòng nghiệp vụ trên có nhiều phương pháp trích lập khác nhau, tùy thuộc vào đặc tính của loại nghiệp vụ, điều kiện mọi mặt về trình độ công nghệ bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ lựa chọn phương pháp thích hợp. Tất nhiên là với vai trò quản lý, Nhà nước sẽ phải giám sát việc
doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng, thay đổi phương pháp trích lập mà doanh nghiệp đã đăng ký. Điều này đã được quy định trong Thông tư 99/2004/TT- BTC:
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không được phép thay đổi phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trong năm tài chính. Trong trường hợp thay đổi phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cho năm tài chính kế tiếp, doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phải đề nghị và được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản trước khi áp dụng [5].
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Của Bảo Hiểm Nhân Thọ Trong Nền Kinh Tế Quốc Dân
- Hoạt Động Bảo Hiểm Phải Tổ Chức Kinh Doanh Theo Các Hình Thức Doanh Nghiệp Nhất Định
- Doanh Nghiệp Chỉ Được Cấp Phép Khi Người Lãnh Đạo Đủ Năng Lực Chuyên Môn
- Một Số Nhận Xét Về Pháp Luật Đối Với Doanh Nghiệp Kinh Doanh Bảo Hiểm Nhân Thọ
- Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Doanh Nghiệp Kinh Doanh Bảo Hiểm Nhân Thọ
- Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 10
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Trên thế giới, pháp luật các nước đều quy định vấn đề này. Luật bảo hiểm Trung Quốc (Điều 93) quy định: "Công ty bảo hiểm nhân thọ phải trích lập một khoản dự phòng cho các khiếu nại với số phí tính trên cơ sở tổng số hợp đồng có hiệu lực".
Điều 65 Luật bảo hiểm Cộng hòa Liên bang Đức quy định: "Các dự phòng toán học và quỹ đầu tư theo tỷ lệ lãi suất kỹ thuật tối đa của các hợp đồng bảo hiểm".
Pháp luật cũng quy định về khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài việc quy định về các dự phòng nghiệp vụ được trích lập trực tiếp từ các khoản phí thu trước nhằm bảo đảm việc thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ vẫn có những quy định ngăn ngừa những sai lệch dự phòng nghiệp vụ làm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm lớn. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp được xem như nguồn tài chính quan trọng bên cạnh và bổ sung cho dự phòng nghiệp vụ nhằm tăng thêm mức độ bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm.
Khả năng thanh toán là chỉ số mà cơ quan quản lý nhà nước dùng để đánh giá độ vững vàng về tài chính của một doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải duy trì khả năng thanh toán phù hợp với quy mô hoạt động kinh doanh của mình để thực hiện cam kết theo hợp đồng bảo hiểm đối với tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. Yêu cầu đối với doanh nghiệp bảo hiểm là khả năng thanh toán tại một thời điểm nào đó luôn luôn lớn hơn (tối thiểu là bằng) các cam kết còn hiệu lực đối với người được bảo hiểm. Thông thường khả năng thanh toán được hình thành từ các yếu tố như vốn chủ sở hữu, lợi nhuận thu được từ đầu tư... Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm khi thành lập phải có một số vốn tối thiểu khá lớn tương ứng với quy mô hoạt động của mình và để bổ sung cho các khoản thiếu hụt của dự phòng nghiệp vụ đã được ước tính.
Như vậy, yêu cầu đối với khả năng thanh toán trong bảo hiểm nhân thọ là rất quan trọng, hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm được ban hành kèm theo Quyết định số 153/2003/QĐ-BTC ngày 2/9/2003 chính là công cụ hỗ trợ rất đắc lực cho cơ quan quản lý bảo hiểm trong việc theo dõi, kiểm tra tình hình hoạt động kinh doanh, việc chấp hành các chính sách, pháp luật Nhà nước của doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó các chỉ tiêu giám sát khả năng thanh toán có các loại: chỉ tiêu khả năng thanh toán; chỉ tiêu nguồn vốn, quỹ điều chỉnh trên tổng công nợ; chỉ tiêu thanh khoản…
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quy định và có biên khả năng thanh toán.
Về biên khả năng thanh toán, Điều 16 Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định:
1- Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được tính trên cơ sở nguồn vốn để xác định biên khả năng thanh toán chia cho tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và số tiền bảo hiểm chịu rủi ro tại thời điểm xác định biên khả năng thanh toán.
2- Nguồn vốn để xác định biên khả năng thanh toán là nguồn vốn chủ sở hữu sau khi trừ các khoản vốn góp để thành lập doanh nghiệp bảo hiểm khác và các khoản nợ không có khả năng thu hồi [9].
Pháp luật của hầu khắp các nước đều quy định vấn đề này nhưng cách xác định biên khả năng thanh toán có khác nhau. Điều 97 Luật bảo hiểm Trung Quốc quy định: "Công ty phải duy trì biên khả năng thanh toán tối thiểu và phù hợp với quy mô kinh doanh của công ty. Số dư tài sản của công ty sau khi trừ đi các trách nhiệm thực không được thấp hơn biên khả năng thanh toán theo quy định". Luật bảo hiểm Pháp quy định: "Các công ty bảo hiểm phải duy trì nguồn tài sản khác tương ứng với mức độ và quy mô hoạt động kinh doanh bằng 4% mức doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ". Luật bảo hiểm Cộng hòa Liên bang Đức quy định biên khả năng thanh toán dựa trên toàn bộ khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm.
Như vậy, sự khác biệt lớn nhất giữa nước ta và Trung Quốc, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức về biên khả năng thanh toán là cơ sở tính toán và xác định nguồn. Pháp luật nước ta quy định nguồn chủ yếu là vốn chủ sở hữu trong khi pháp luật Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Liên bang Đức dựa trên toàn bộ quy mô hoạt động và khối lượng kinh doanh; các nước coi trọng vấn đề này.
Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư vốn là hoạt động tài chính không thể thiếu được trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, hiệu quả đầu tư quyết định sự sống còn của doanh nghiệp bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính chất tiết kiệm vừa mang tính chất phòng ngừa rủi ro, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ngoài việc trả tiền khi người được bảo hiểm gặp rủi ro trong thời hạn của hợp đồng còn phải trả số tiền bảo hiểm (tiền gốc) và bảo tức cho người
được bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng, bảo tức càng cao thì thu hút người tham gia bảo hiểm càng nhiều. Chính vì điều đó nên cần phải có sự quản lý của Nhà nước về đầu tư của doanh nghiệp như thế nào để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Việc doanh nghiệp bảo hiểm được phép đầu tư vào những lĩnh vực nào, giá trị đầu tư là bao nhiêu thông thường đều bị pháp luật các nước khống chế. Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm của các nước rất coi trọng việc điều chỉnh nội dung đầu tư, cơ cấu các khoản mục đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là đầu tư nguồn vốn từ dự phòng nghiệp vụ.
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có thể lấy từ vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi từ năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại doanh nghiệp, đặc biệt là các nguồn vốn nhàn rỗi từ các dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm chính là tiền của các khách hàng mua bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đang tạm thời quản lý. Chính vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm, quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các quốc gia rất coi trọng việc kiểm tra hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn này.
Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về đầu tư vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được quy định tại Điều 13 của Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 đã nêu rõ: Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chỉ được đầu tư ở Việt Nam trong các lĩnh vực sau: mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế; mua cổ phiếu trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp bảo hiểm khác tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm; kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác cho vay qua các tổ chức tín dụng tối đa 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
Ngoài ra, để giám sát các doanh nghiệp thực hiện hiệu quả việc đầu tư, Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có các chỉ tiêu liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư như: chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản, chỉ tiêu thay đổi cơ cấu tài sản, chỉ tiêu tỷ lệ đầu tư vào các công ty liên kết. Các chỉ tiêu giám sát và các quy định về đầu tư vốn nói trên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, vì nếu không có những quy định và chỉ tiêu giám sát trên, sẽ rất nguy hiểm nếu doanh nghiệp bảo hiểm tập trung quá nhiều lượng vốn đầu tư vào một nơi, một điểm, một khoản mục đầu tư, chẳng hạn đầu tư vào cổ phiếu do một công ty phát hành.
Do vậy, sự giám sát toàn diện, thường xuyên sẽ giúp Nhà nước quản lý được hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm, đảm bảo các doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu đầu tư hiệu quả nhưng phải an toàn để bảo vệ lợi ích của người tham gia bảo hiểm.
2.4. TRUNG GIAN BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn gắn với mọi hoạt động kinh tế xã hội. Để sản phẩm bảo hiểm đến được với các tổ chức và mọi tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần phải có một đội ngũ những người hỗ trợ bán bảo hiểm, làm cầu nối giới thiệu dịch vụ bảo hiểm, tư vấn cho khách hàng mua bảo hiểm, đội ngũ đó chính là đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Hiện nay hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam mới chỉ có sự tham gia của đại lý bảo hiểm, còn các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chưa tham gia vào hoạt động bảo hiểm nhân thọ. Do vậy, ở phần này, người viết xin chỉ nêu về vai trò của đại lý bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Đại lý bảo hiểm hoạt động dưới hai hình thức là đại lý tổ chức và đại lý cá nhân. Luật kinh doanh bảo hiểm (Điều 84) đã quy định: "Đại lý bảo
hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm" [25].
Hoạt động đại lý bảo hiểm là hoạt động giới thiệu, chào bán, thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và các công việc nhằm thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo ủy quyền của doanh nghiệp. Việc chào bán các sản phẩm bảo hiểm đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ đến các tầng lớp dân cư doanh nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải sử dụng đại lý. Khác với môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm là người đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm, được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền để thực hiện việc bán bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về hoạt động của đại lý khi đại lý bảo hiểm vi phạm các quy định trong hợp đồng đại lý, gây thiệt hại đến quyền lợi của người được bảo hiểm. Các đại lý sẽ do doanh nghiệp bảo hiểm lựa chọn, ký kết hợp đồng trên nguyên tắc thỏa thuận. Vì đại lý là đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm nên pháp luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam cũng như của hầu khắp các nước đều quy định: "Tổ chức, cá nhân không được đồng thời làm đại lý cho doanh nghiệp bảo hiểm khác nếu không được sự chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm mà mình đang làm đại lý".
Điều 86 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định đại lý bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện: Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cấp.
Đối với tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp và nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện như cá nhân làm đại lý.
Việc doanh nghiệp bảo hiểm ký hợp đồng thuê đại lý bán các sản phẩm bảo hiểm, đại diện cho mình giao dịch với khách hàng, một mặt mau chóng tiếp cận với những người có nhu cầu bảo hiểm, mở rộng địa bàn và
tăng nhanh doanh thu. Tuy nhiên, với một mạng lưới đại lý rộng, trình độ đại lý không đồng đều, đặc biệt hoạt động marketing của họ thường là đơn lẻ, độc lập rất khó kiểm soát, vì vậy cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định, đặc biệt là trong bảo hiểm nhân thọ.
Ví dụ: Để được hưởng hoa hồng bảo hiểm, đôi khi đại lý không thông báo cho khách hàng, giải thích cho khách hàng nghĩa vụ khi tham gia bảo hiểm mà chỉ nói tới quyền lợi, nhằm ký được nhiều hợp đồng bảo hiểm. Những việc làm như vậy đôi khi ảnh hưởng tới quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Đặc biệt trong các trường hợp đại lý không hướng dẫn người tham gia bảo hiểm kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm. Nhiều người tham gia bảo hiểm chỉ coi việc kê khai là thủ tục, nhưng về mặt pháp lý giấy yêu cầu bảo hiểm là một bộ phận của hợp đồng, nếu người tham gia bảo hiểm kê khai sai hay bỏ qua một vài chi tiết sẽ bị doanh nghiệp bảo hiểm coi là khai báo không trung thực và doanh nghiệp có thể từ chối trả tiền bảo hiểm. Trường hợp cố Nghệ sĩ nhân dân Lê Dung bị công ty bảo hiểm Prudential từ chối trả tiền bảo hiểm là một ví dụ.
Nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm trong các trường hợp như vậy và ngăn chặn các đại lý có những hành động làm ảnh hưởng tới uy tín, lợi ích của doanh nghiệp bảo hiểm mà họ là đại diện. Luật kinh doanh bảo hiểm (Điều 88) quy định:
Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp giao kết; đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm [25].