Một Số Nhận Xét Về Pháp Luật Đối Với Doanh Nghiệp Kinh Doanh Bảo Hiểm Nhân Thọ

Trên thế giới, Luật kinh doanh bảo hiểm của các nước có những quy định khác nhau về đại lý bảo hiểm. Luật bảo hiểm Malaysia không quy định hình thức đại lý bảo hiểm. Luật các nước Singapore, Trung Quốc, Indonesia quy định đại lý có thể là tổ chức hoặc cá nhân.

Luật bảo hiểm Thái Lan quy định đại lý phải: ở tuổi thành niên; cư trú tại Thái Lan; có đủ khả năng trình độ; chưa bị kết án tù và có hành động liên quan đến tài sản, trừ trường hợp đã được trả tự do ít nhất là 5 năm trước khi xin giấy phép; chưa bị phá sản; không phải là người môi giới bảo hiểm nhân thọ; không phải là đại lý bảo hiểm nhân thọ hay bị thu hồi giấy phép trong khoảng 3 năm trước khi xin giấy phép; đã học về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Học viện theo quy định của người đứng đầu cơ quan quản lý bảo hiểm được công nhận hoặc đã qua kỳ thi về bảo hiểm nhân thọ theo chương trình giảng dạy và nội dung theo quy định của người đứng đầu cơ quan quản lý bảo hiểm.

Trong khi đó Luật bảo hiểm Myanmar quy định đại lý bảo hiểm là một tổ chức và cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm cấp giấy phép hoạt động cho đại lý bảo hiểm. Luật bảo hiểm Nhật Bản quy định chung cho cả đại lý là tổ chức và cá nhân là không bị phá sản hoặc bị pháp luật một nước khác đối xử là phá sản; không bị tù hoặc bị các hình thức xử phạt nặng trong vòng 3 năm trước ngày nộp đơn xin hoạt động đại lý.

Hiện nay ở nước ta, với sự ra đời của 8 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã có trên 99.000 đại lý bảo hiểm hoạt động chuyên nghiệp. Có thể nói rằng, việc sử dụng đại lý của các doanh nghiệp bảo hiểm đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một lực lượng lớn người lao động, giảm bớt khó khăn cho xã hội.


2.5. CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ


Nhằm hạn chế những ảnh hưởng bất lợi của tình trạng phá sản doanh nghiệp bảo hiểm, theo Luật kinh doanh bảo hiểm, nếu một doanh nghiệp bảo

hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán, giải thể, sáp nhập… thì phải chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp khác. Nếu hai bên không thỏa thuận được, Bộ Tài chính sẽ đứng ra chỉ định doanh nghiệp bảo hiểm nhận chuyển giao. Khi đó quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng bảo hiểm không thay đổi cho đến khi hết thời hạn hợp đồng và việc chuyển giao hợp đồng phải kèm theo việc chuyển giao các quỹ và dự phòng nghiệp vụ liên quan.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị chuyển giao, Bộ Tài chính sẽ có văn bản chấp thuận, từ chối chấp thuận hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đề nghị chuyển giao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Sau khi chấp thuận hồ sơ đề nghị chuyển giao, Bộ Tài chính sẽ cấp giấy phép điều chỉnh cho doanh nghiệp chuyển giao phù hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm mà doanh nghiệp chuyển giao còn được phép tiến hành.

Theo Thông tư 98/2004/TT-BTC ban hành ngày 19/10/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm được quy định rõ rằng: Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hay một số nghiệp vụ bảo hiểm (sau đây gọi tắt là chuyển giao) cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam. Việc chuyển giao phải đảm bảo nguyên tắc không gây thiệt hại đến quyền lợi của bên mua bảo hiểm sau khi thực hiện việc chuyển giao.

Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 8

Bên mua bảo hiểm được phép hủy hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc chuyển giao tính theo dấu bưu điện. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm hủy hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp chuyển giao phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm bên mua bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý có liên quan.

Kể từ ngày Bộ Tài chính chấp thuận văn bản đề nghị chuyển giao, doanh nghiệp chuyển giao không được tiếp tục ký kết hợp đồng bảo hiểm mới thuộc nghiệp vụ bảo hiểm đã được chuyển giao. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Bộ Tài chính phê chuẩn kế hoạch chuyển giao, doanh nghiệp chuyển giao phải chuyển cho doanh nghiệp nhận chuyển giao: toàn bộ các hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực thuộc kế hoạch chuyển giao đã được Bộ Tài chính phê chuẩn; các hồ sơ khiếu nại chưa giải quyết liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm được chuyển giao; toàn bộ tài sản, các quỹ và dự phòng nghiệp vụ liên quan đến những hợp đồng bảo hiểm được chuyển giao.

Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam từ trước cho tới giai đoạn này, chỉ duy nhất có Công ty bảo hiểm Allianz VN (một công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Đức) là xin rút khỏi thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi đồng ý bán toàn bộ phần vốn góp cho Công ty Bảo hiểm QBE (Australia). Vụ mua bán này đã được Bộ Tài chính chấp thuận và công ty mới được đổi tên thành Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm QBE Việt Nam. Theo đó toàn bộ khách hàng và hợp đồng đang còn hiệu lực của Allianz đã được chuyển giao cho QBE mà không gây ra xáo trộn. Các điều khoản, điều kiện và việc bồi thường theo các hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực của khách hàng không thay đổi và các khách hàng không phải làm bất cứ thủ tục nào nếu khách hàng muốn các hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực đến khi đáo hạn.

Cũng tương tự như Công ty Allianz, trong trường hợp một công ty bảo hiểm nhân thọ nào rơi vào tình trạng có nguy cơ mất khả năng thanh toán, giải thể và sáp nhập... dẫn tới trường hợp phải chuyển giao hợp đồng cho doanh nghiệp bảo hiểm khác thì cũng bắt buộc phải tuân thủ những quy định pháp luật trên, điều này xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền lợi cho bên mua bảo hiểm, một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất trong mục đích của quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Qua phân tích những quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hiểm nhân thọ ở chương 2, có thể thấy rằng, hệ thống pháp luật về lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ đã được Nhà nước luôn quan tâm xem xét bằng việc ban hành mới các quy định pháp luật bổ sung, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phát triển nghiệp vụ này. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động kinh doanh cho thấy, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở nước ta vẫn còn đặt ra một số vấn đề cần quan tâm giải quyết. Vấn đề này tác giả xin được trình bày ở chương 3 của luận văn.

Chương 3‌

MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ


3.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ

Vào những thời kỳ khác nhau, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định đời sống và sản xuất. Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 ra đời đã đánh dấu một bước chuyển lớn của hoạt động bảo hiểm Việt Nam trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm, làm tiền đề cho sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ. Trải qua 10 năm hoạt động, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã phát triển với tốc độ rất nhanh, đặc biệt là từ năm 2001 trở lại đây, khi Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực thi hành thay thế cho Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm đã tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý về bảo hiểm, cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm hoạt động trên một nền tảng pháp luật đầy đủ hơn và phù hợp hơn.

Từ chỗ chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ duy nhất trên thị trường là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), thì tới nay đã có 08 doanh nghiệp trong đó có duy nhất 01 doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước (Bảo Việt); 01 Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Baominh-CMG (liên doanh giữa Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh - một doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và Công ty CMG của Úc), 06 Công ty bảo hiểm Nhân thọ 100% vốn đầu tư nước ngoài là: Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ Prudential (có nguồn gốc từ Anh); Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Quốc tế Mỹ AIA (có nguồn gốc từ Hoa Kỳ); Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Manulife (có nguồn gốc từ Canada); Công ty trách nhiệm hữu hạn

Bảo hiểm Prevoir (có nguồn gốc từ Pháp); và 02 công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm là ACE Life và New York Life International (có nguồn gốc từ Hoa Kỳ) mới được Bộ Tài chính cấp phép hoạt động kinh doanh năm 2005.

Các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã từng bước củng cố vị trí trong nền kinh tế quốc dân và và hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã hỗ trợ rất tích cực cho các chính sách xã hội của đất nước. Quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã khá rõ ràng về quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm cũng như người tham gia bảo hiểm, các bên liên quan; xác lập mối quan hệ bình đẳng giữa các chủ thể.

Như đã trình bày ở chương 1, với lợi thế của một ngành bảo hiểm đa dạng, khác với bảo hiểm phi nhân thọ chỉ có một mục đích là nhằm bồi thường cho những hậu quả của một sự cố, thì bảo hiểm Nhân thọ có thể có rất nhiều mục đích, các loại hình sản phẩm nhân thọ đã đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Vì vậy, ngành bảo hiểm nhân thọ mặc dù mới xuất hiện ở thị trường Việt Nam chưa được bao lâu nhưng đã rất phát triển.

Từ khi Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) ra đời, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã nhận được sự quan tâm, tạo môi trường pháp luật thuận lợi từ phía Nhà nước để phát triển. Các quy định của pháp luật về lĩnh vực này dần được xây dựng và sửa đổi, bổ sung từng bước cho phù hợp hơn với thực tiễn đã tạo những điều kiện cần thiết cho hoạt động này phát triển.

Tuy nhiên, cũng do bản thân nghiệp vụ còn mới mẻ, chưa từng được triển khai trước đây, nên trong quy định pháp luật về loại hình doanh nghiệp, về hoạt động kinh doanh còn bất cập, dẫn đến việc các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khi áp dụng những quy định đó vào thực tiễn kinh doanh còn lúng túng, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và của chính các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, có thể kể đến một số nội dung sau:

* Sự khập khiễng và không sát với thực tiễn trong các quy định pháp luật về tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm: Theo quy định của Điều 10 Nghị định

42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm thì các Tổng Công ty Nhà nước được tổ chức và hoạt động dưới các hình thức: Văn phòng trụ sở chính của Tổng Công ty; Văn phòng trụ sở chính của các đơn vị thành viên; Văn phòng đại diện.

Cũng tại khoản 2 Điều 10 của Nghị định này thì "đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước khác, công ty cổ phần bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được tổ chức và hoạt động dưới các hình thức: Văn phòng trụ sở chính công ty; Chi nhánh; Văn phòng đại diện.

Nhưng không có bất kỳ một văn bản nào của Nhà nước quy định về thủ tục thành lập và cấp phép khi các Tổng Công ty Nhà nước mở các đơn vị thành viên và phải cần những thủ tục pháp lý gì. Trong khi đó Điều 11 Nghị định 42 lại quy định rất chi tiết về việc mở Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm (doanh nghiệp nhà nước khác, công ty cổ phần và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài) như sau:

1- Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động theo quy định của nghị định này và được quy định trong điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động của chi nhánh.

2- Doanh nghiệp bảo hiểm được mở chi nhánh ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính để thực hiện các nội dung hoạt động quy định tại giấy phép thành lập và hoạt động.

3- Hồ sơ xin mở chi nhánh bao gồm: Đơn xin mở chi nhánh; báo cáo đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong năm tài chính trước; Báo cáo điều tra nhu cầu bảo hiểm nơi doanh nghiệp bảo hiểm xin phép mở chi nhánh; kế hoạch kinh doanh của chi nhánh trong 3 năm tới, trong đó nêu rõ nội dung, phạm vi hoạt động, các sản phẩm bảo hiểm dự kiến kinh doanh, dự

kiến tổ chức bộ máy, nhân sự, địa điểm đặt chi nhánh; lý lịch, văn bằng, chứng chỉ của người điều hành chi nhánh [8].

Thực tế thì các đơn vị thành viên của các Tổng Công ty bảo hiểm nhà nước lại được gọi là công ty, mặc dù các đơn vị này là hạch toán phụ thuộc, cũng do Bộ Tài chính quyết định thành lập và hoạt động (việc thành lập các đơn vị này có thể được theo một công văn hướng dẫn riêng không nằm trong hệ thống các văn bản pháp luật kinh doanh bảo hiểm kể cả trong các hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp nhà nước) Như vậy, rõ ràng là cùng một đối tượng như nhau, nhưng lại được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác nhau và các đối tượng này phải hành xử khác nhau mặc dù có thể không có sự ưu ái khác nhau từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Việc Nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp 2005 cũng như Luật đầu tư mới thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã bộc lộ những điểm mà thực tiễn tổ chức các doanh nghiệp phải thay đổi. Trong khi Luật kinh doanh bảo hiểm quy định có loại hình doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài (Điều 59) thì Luật đầu tư mới lại quy định liên doanh chỉ là hình thức đầu tư.

Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005 thì phải cổ phần hóa các doanh nghiệp này? Còn nếu hoạt động theo Luật kinh doanh bảo hiểm thì lại không có quy định về tổ chức hoạt động.

* Trong thực tế áp dụng, còn tồn tại một số quy định pháp luật chưa thật phù hợp với các nguyên tắc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Những quy định như vậy gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong quá trình áp dụng, bởi nếu tuân thủ theo đúng quy định thì có thể gây thiệt hại cho khách hàng và bản thân doanh nghiệp, nếu không tuân thủ thì lại vi phạm pháp luật. Về phía cơ quan quản lý nhà nước, đây cũng là những quy

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí