Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 10

quyền yêu cầu giải thích của bên mua bảo hiểm (được qui định tại khoản 1(a) Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm. Trường hợp bên mua bảo hiểm không yêu cầu thì doanh nghiệp bảo hiểm có phải giải thích hay không? Thực tế các nội dung của hợp đồng bảo hiểm là các nội dung có sẵn, công khai, và doanh nghiệp bảo hiểm không thể giấu giếm nội dung (các điều khoản bảo hiểm này chịu sự quản lý chặt chẽ về nghiệp vụ của Bộ Tài chính thông qua việc các doanh nghiệp bảo hiểm phải báo cáo, đăng ký các điều khoản bảo hiểm đang áp dụng). Như vậy, bên mua bảo hiểm hoàn toàn có thể tham khảo toàn bộ nội dung hợp đồng trước khi giao kết, trong trường hợp không hiểu cần giải thích thì ngay tại thời điểm đó phải yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích, nếu không có yêu cầu giải thích thì coi như bên mua bảo hiểm đã hiểu và chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng bảo hiểm.

Như vậy, vấn đề này cần có hướng dẫn và qui định cụ thể (hoặc cho phép các bên tự thỏa thuận) về thời điểm hoặc khoảng thời gian cụ thể để các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ này; nếu quá thời điểm đó mà các bên không thực hiện thì coi như mặc nhiên không có tranh chấp về vấn đề này. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, tránh trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng quy định này để lẩn tránh nghĩa vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm không thể chứng minh ngược lại được.

* Để hướng tới một thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển bền vững và tăng trưởng trong tương lai, có những quy định mang tính nghiệp vụ cao đã được pháp luật tất cả các nước khác ghi nhận nhưng lại chưa có trong văn bản pháp luật nước ta cần được quan tâm xem xét với mức ưu tiên cao. Đa phần những quy định như vậy là kết quả đúc rút từ những bài học thu được trong thực tiễn kinh doanh và đều hướng tới mục đích tốt đẹp thức đẩy sự phát triển của ngành kinh doanh đầy tính nhân văn này. Quy định sau đây nên được quan tâm, bổ sung ngay, đó là:

- Quy định về thời gian tự do xem xét. Đạo lý của quy định này, như đã trình bày ở trên, chính là việc tạo điều kiện cho người mua bảo hiểm có thể xem xét lại hợp đồng bảo hiểm mà mình đã lựa chọn. Điều khoản và các phụ lục ghi nhận các điều kiện cụ thể của hợp đồng (như số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, người thụ hưởng…) chỉ đến tay bên mua bảo hiểm sau khi họ đã nộp phí bảo hiểm đầu tiên và hợp đồng bảo hiểm đã phát sinh hiệu lực. Nhưng cũng phải đến lúc này, họ mới được tạo điều kiện để nghiên cứu một cách thật kỹ lưỡng sản phẩm mình đã chọn qua các tài liệu hợp đồng (trước đó, họ chỉ biết về sản phẩm qua lời giới thiệu của đại lý khai thác).

Do vậy, thật hợp lý khi cho rằng bên mua bảo hiểm cần có một khoảng thời gian nhất định sau khi hợp đồng đã phát sinh hiệu lực và đã đến tay họ để xem xét lại xem hợp đồng đã được phát hành có đúng với khả năng tài chính, mong muốn và dự kiến của mình hay không. Nếu câu trả lời là không, khách hàng được quyền từ chối tham gia bảo hiểm và nhận lại phần phí mình đã đóng, đương nhiên là sau khi đã trừ đi các chi phí mà doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra để khai thác hợp đồng.

Điều này cũng nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và tự do ý chí - một nguyên tắc cơ bản của việc giao kết và thực hiện mọi hợp đồng dân sự nói chung. Tuy nhiên, thời hạn này cũng phải đảm bảo không quá dài để có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm, không đưa doanh nghiệp vào tình thế bất lợi vì bị khách hàng lợi dụng. Trên cơ sở cân nhắc tất cả các yếu tố này, các doanh nghiệp bảo hiểm trên khắp thế giới đã cùng nhau lựa chọn và hầu hết đều chọn khoảng thời gian 14 ngày kể từ ngày hợp đồng phát sinh hiệu lực. Các nhà lập pháp ở các quốc gia cũng nhận thấy tính hợp lý của thời hạn này, do vậy, pháp luật các nước đều ghi nhận nội dung tương tự. Ví dụ như Luật bảo hiểm của Singapore, chương 142, phụ lục D6, phần VII quy định rõ: các công ty bảo hiểm phải dành 14 ngày "tự do xem xét" cho người sở hữu đơn bảo hiểm kể từ khi nhận được đơn bảo hiểm.

Đối với điều kiện thị trường nước ta, một quy định như vậy lại càng là vô cùng cần thiết vì nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ còn quá mới mẻ và trình độ hiểu biết của người dân nói chung về bảo hiểm nhân thọ còn thấp. Điều khoản này sẽ phát huy vai trò tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm. Bên cạnh đó, với thực tế quy trình kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, có thể nói thời hạn 14 ngày và tính từ thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực là khoảng thời gian phù hợp nhất cho bên mua bảo hiểm thực hiện quyền tự do xem xét lại hợp đồng của mình. Khoảng thời gian này là vừa đủ cho việc hợp đồng được phát hành và chuyển tới tay cho khách hàng nghiên cứu, lại cũng không quá dài để có thể gây biến động thường xuyên, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc quy định vấn đề này bằng một quy phạm pháp luật còn giải quyết được vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng thiếu thống nhất khi xây dựng và vận dụng quy định này giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường nước ta. Sự chủ động, linh hoạt là quyền riêng có trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, tuy nhiên nếu không được định hướng thì sự linh hoạt quá đà có thể gây rối loạn trên thị trường và có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm.

* Do người tiêu dùng cá nhân còn rất thiếu kinh nghiệm sử dụng bảo hiểm, khi nghiên cứu các điều khoản của bảo hiểm thì cũng không nghiên cứu được sâu do có quá nhiều thuật ngữ chuyên môn khó hiểu. Vì vậy, quy định pháp luật về chuẩn hóa các thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm và các tài liệu đi kèm là hết sức quan trọng. Thực tế kinh doanh cho thấy, khách hàng thường không có kinh nghiệm nhiều về bảo hiểm nên trong quá trình ký kết hợp đồng, nhiều khi tin tưởng tuyệt đối vào đại lý và cũng không nghiên cứu kỹ điều khoản hợp đồng bảo hiểm hoặc nếu có nghiên cứu thì cũng không hiểu rõ hết do có quá nhiều thuật ngữ chuyên môn khó hiểu.

Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm cần ban hành quy định chuẩn hóa các thuật ngữ phù hợp với quy định của luật để các công ty bảo

hiểm cùng sử dụng thống nhất nhằm tạo điều kiện cho người mua bảo hiểm đọc, hiểu và so sánh được các hợp đồng bảo hiểm của các công ty bảo hiểm khác nhau, giúp khách hàng có thể hiểu rõ ràng ý nghĩa của các điều khoản và điều kiện bảo hiểm, tránh việc hiểu sai, hiểu lầm trong tương lai.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

* Vấn đề một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường hoặc trở nên mất khả năng thanh toán cần được pháp luật quy định chi tiết và cụ thể hơn. Vì hiện nay, các quy định hiện hành có đề cập tới việc chuyển giao các hợp đồng bảo hiểm nhưng không đề cập cụ thể tới trường hợp một công ty bảo hiểm chủ động chấm dứt hoạt động trên thị trường. Quy định pháp luật cũng đã liệt kê những biện pháp nhằm phục hồi khả năng thanh toán của một công ty bảo hiểm, việc thành lập ban giám sát nhằm kiểm soát các công ty mất khả năng thanh toán, nhưng chưa quy định cụ thể các biện pháp này cần được thực hiện như thế nào, ban giám sát được thành lập và hoạt động ra sao. Luật kinh doanh bảo hiểm (Điều 83) cũng đã dẫn chiếu đến Luật phá sản doanh nghiệp: "Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, sau khi áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà vẫn mất khả năng thanh toán thì việc phá sản doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp".

Nhưng công ty bảo hiểm không giống như bất kỳ công ty nào khác, quyền lợi của người mua bảo hiểm phải được ưu tiên bảo vệ. Nếu áp dụng thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường, thứ tự ưu tiên nhận thanh toán có thể không đảm bảo được quyền lợi của người mua bảo hiểm. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp là cần phải rà soát kỹ các văn bản pháp lý có liên quan để đảm bảo các nguyên tắc của Luật phá sản doanh nghiệp vẫn được tuân thủ, trong khi quyền lợi của người mua bảo hiểm vẫn được bảo vệ tối đa.

Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 10

Bên cạnh đó, có thể học kinh nghiệm ở một số nước, trong hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm (là tổ chức dân sự nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tham gia tự nguyện và đóng góp kinh phí của hội viên là các doanh nghiệp

bảo hiểm) thường có các thỏa thuận nhằm hạn chế những ảnh hưởng bất lợi của tình trạng phá sản doanh nghiệp bảo hiểm, chẳng hạn việc thống nhất thỏa thuận: Các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh cùng loại nghiệp vụ bảo hiểm có trách nhiệm chia sẻ hậu quả của việc phá vỡ cam kết đối với những người mua sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm bị phá sản.

Bên cạnh các quy định pháp luật cần được sửa đổi bổ sung như đã nêu ở trên, tác giả xin kiến nghị thêm một số vấn đề sau mà các nhà làm luật cần nghiên cứu quan tâm, xem xét:

- Theo Luật kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để cho vay phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng. Nhưng hiện nay, sự không đồng bộ trong các quy định pháp luật hiện hành khiến các công ty bảo hiểm chưa thể cho vay vốn trực tiếp. Vì theo quy định trong Luật các tổ chức tín dụng, việc cấp phép cho phép các công ty bảo hiểm tiến hành hoạt động tín dụng thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện tại, Chính phủ chưa có nghị định hướng dẫn về việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm nên chưa có văn bản pháp quy nào của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cụ thể về việc cấp phép cho các công ty bảo hiểm tiến hành hoạt động tín dụng. Do đó, trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng để tiến hành đầu tư.

- Đối với ngành bảo hiểm, thị trường chứng khoán vừa đóng vai trò là kênh huy động vốn, vừa đóng vai trò là nơi đầu tư nhàn rỗi của các doanh nghiệp bảo hiểm. Cho đến nay, một phần do các hạn chế của quy định pháp luật, một phần do sự hạn chế về khả năng tài chính cũng như sự minh bạch của tình hình tài chính doanh nghiệp nên chưa có một doanh nghiệp bảo hiểm nào được niêm yết trên thị trường chứng khoán, do đó thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực hiện được vai trò huy động vốn cho các công ty bảo hiểm. Về mặt đầu tư, thị trường chứng khoán với quá ít sản phẩm, hàng hóa

niêm yết, việc công bố thông tin còn chậm, chưa cập nhật, chính xác, mức độ minh bạch của thị trường còn ở mức trung bình khiến các sản phẩm, hàng hóa có độ rủi ro cao hơn như cổ phiếu của các công ty niêm yết chưa đủ sức hấp dẫn các công ty bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm có vốn nước ngoài.

Hiện nay, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung vào trái phiếu chính phủ, tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Mặc dù đây là hình thức đầu tư an toàn, nhưng mức độ sinh lời thấp, làm giảm hiệu quả hoạt động, cũng như hạn chế chức năng tài chính trung gian của các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo một số nghiên cứu cho thấy, trong tương lai, tại Việt Nam, ngân hàng sẽ không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, và thị trường vốn cần phải được cải thiện nhằm đảm bảo đủ vốn cho sự phát triển của nền kinh tế.

Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp phải nghiên cứu, cải thiện các quy định pháp lý nhằm trợ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào thị trường chứng khoán được thuận lợi, biến thị trường chứng khoán thành nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty bảo hiểm.

- Hiện tượng đặt ra mối quan ngại chung cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là hiện nay, theo đà phát triển của lĩnh vực kinh doanh này, thì hiện tượng khách hàng có hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm diễn ra ngày càng phổ biến. Để ngăn chặn, hạn chế các hành vi trục lợi bảo hiểm của khách hàng và sự thông đồng của cán bộ bảo hiểm, Nhà nước ta đã ban hành Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10/2003 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong đó có quy định xử phạt về hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm. Tuy nhiên, với mức xử phạt bằng tiền thấp như quy định hiện

nay thì việc xử phạt hành chính chưa có ý nghĩa răn đe khách hàng cũng như cán bộ có hành vi trục lợi bảo hiểm.

Thực tế cho thấy, nếu việc xử lý các trường hợp vi phạm không nghiêm minh, thỏa đáng thì không một luật lệ nào thực sự đảm bảo được hiệu lực lâu dài. Chỉ có sự giám sát, kiểm tra thường xuyên của cơ quan chức năng đi đôi với việc xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm bằng cách đề ra những biện pháp, chế tài đủ mạnh mới đảm bảo được sự công bằng, và ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ mới có một môi trường lành mạnh, trong đó các chủ thể tham gia thị trường đều hoạt động trên cơ sở tôn trọng pháp luật, cùng tồn tại và phát triển bền vững, vì lợi ích của cộng đồng và xã hội.

Nói tóm lại, bên cạnh những mặt tích cực trong việc sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, vẫn tồn tại một số quy định pháp luật còn bất cập cần được rà soát nhằm điều chỉnh các quy định chưa phù hợp, bổ sung các quy định còn thiếu hoặc chưa rõ ràng nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên trong quan hệ hợp đồng, cũng như lợi ích chung của toàn ngành và toàn xã hội. Có như vậy, pháp luật mới thực sự đóng vai trò môi trường pháp lý cần thiết và hữu hiệu, giúp cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phát triển.

KẾT LUẬN


Bảo hiểm nhân thọ ra đời xuất phát từ nhu cầu trong cuộc sống, việc ra đời của bảo hiểm nhân thọ đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc thực hiện và giải quyết các nhu cầu tài chính liên quan tới con người. Ở Việt Nam, sự ra đời, phát triển của bảo hiểm nhân thọ gắn liền với những thay đổi của đất nước, bảo hiểm nhân thọ mới đi vào hoạt động được 10 năm sau thời kỳ đổi mới kinh tế và nghiệp vụ này đến nay có thể nói vẫn còn là mới mẻ, nhưng cũng rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn ở Việt Nam. Trong hơn mười năm vừa qua, hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã tạo được việc làm cho hơn 100.000 lao động, đóng góp cho ngân sách hàng năm khá cao.

Nghiệp vụ này cũng đã tạo ra một hướng đi mới để phát triển an sinh xã hội ở nước ta, mang lại sự bảo vệ cho hàng triệu người trước những rủi ro không mong đợi, nhưng thường là những rủi ro nặng nề nhất mà cuộc đời một con người phải hứng chịu, đó là chết và thương tật. Đồng thời, bảo hiểm nhân thọ góp thêm một tiếng nói để mở rộng các hình thức dịch vụ tài chính, huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đầu tư trở lại cho nền kinh tế, thúc đẩy giao lưu tài chính và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Do đặc trưng nghiệp vụ của mình, bảo hiểm nhân thọ còn tạo thêm cơ hội để thúc đẩy phát triển công nghệ, kỹ thuật cao trong nước.

Chính vì có ý nghĩa trên nhiều mặt như vậy, bảo hiểm nhân thọ đang được Nhà nước ta quan tâm đầu tư phát triển bằng nhiều biện pháp, trong đó là việc tạo cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia vào thị trường có một hành lang pháp lý thông thoáng để phát triển hoạt động kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp bảo hiểm đã nhận được sự quan tâm từ phía Nhà nước bằng việc Nhà nước ta đã lần lượt ban hành bổ sung,

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí